Thời thế nào, anh hùng nấy, đã đến lúc cần ghi nhận vai trò lớp người đầy năng động tiêu biểu cho trình độ phát triền lực lượng sản xuất mới ở nước ta, và nói rộng hơn là phản ánh xu thế phát triển kinh tế ở thời đại ngày nay Trên thế giới đang diễn ra sự thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực quản lý kinh doanh nói riêng và quản lý kinh tế - xã hội nói chung cả về 2 mặt: một là quản lý - điều hành theo khoa học (với các phương tiện...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
4 tố chất cơ bản của nhà quản lý doanh nghiệp
4 tố chất cơ bản của nhà quản lý
doanh nghiệp
Thời thế nào, anh hùng nấy, đã đến lúc cần ghi nhận vai trò lớp người đầy
năng động tiêu biểu cho trình độ phát triền lực lượng sản xuất mới ở nước ta,
và nói rộng hơn là phản ánh xu thế phát triển kinh tế ở thời đại ngày nay
Trên thế giới đang diễn ra sự thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực quản lý kinh
doanh nói riêng và quản lý kinh tế - xã hội nói chung cả về 2 mặt: một là
quản lý - điều hành theo khoa học (với các phương tiện của công nghệ tin
học) và hai là tiêu chuẩn nhân sự quản lý (với các yêu cầu mới về chất). Có
thể nói thế kỷ XXI là thế kỷ của nhân tố con người trong mọi lĩnh vực hoạt
động. Các nhà quản lý doanh nghiệp, để xứng đáng với tầm cỡ và sự tôn
vinh của xã hội cần có hoặc rèn luyện để có các tố chất cơ bản tiêu biểu cho
một tầng lớp tinh hoa của đất nước.
Có nhà nghiên cứu đã tổng kết 4 tố chất cơ bản của nhà quản lý doanh
nghiệp qua 4 chữ: Tâm, Trí, Lực và Văn với các nội dung chính như sau:
Thứ nhất, chữ Tâm được đưa lên hàng đầu như là nền tảng cho các tố chất
khác.
Đó là ý chí lập nghiệp mãnh liệt, có tinh thần mạo hiểm để tận dụng thời cơ,
tính tự tin cao ở tài năng để vượt mọi trở lực, thách thức không dễ dàng đầu
hàng trước mọi nguy cơ. Có thể ví như ý chí của các ông vua đầu tiên gây
dựng nên triều đại mới. Đã từng có nhiều tấm gương lớn về ý chí lập nghiệp
tiêu biểu cho nhân tài quản lý trong thế kỷ XX như Edison, Ford, Honda,
Bill Gates...
Tâm còn là tâm huyết, tận tâm tận lực với công việc, coi công việc là tất cả ý
nghĩa cuộc sống, quên cả mệt mỏi. Đó cũng là ý thức trách nhiệm cao trước
xã hội, là lòng yêu nước nồng nàn, làm giàu cho mình và làm giàu cho đất
nước.
Một biểu hiện khác của chữ Tâm là lương tâm nghề nghiệp. Đó là ý thức
làm ăn lương thiệnm, kinh doanh hợp pháp và giữ chữ Tín trong quan hệ.
Nhà quản lý có Tâm tuyệt đối không làm ăn chụp giật, lừa đảo, buôn lậu,
cạnh tranh tàn bạo, chạy theo lợi nhuận bằng bất cứ giá nào ...
Là người nắm và sử dụng quyền lực và tiền bạc, Nhà quản lý có Tâm là
người có đức tính liêm khiết, minh bạch, sòng phẳng, công bằng, biết quý
đồng tiền mô hôi nước mắt của mình và của người lao động. Tâm còn có
nghĩa là tự trọng, khiêm nhường, chân thành, biết cư xử lịch thiệp trong
quan hệ với đối tác và người lao động.
Nếu như cân nói súc tích nhất, nội hàm chủ yếu của chữ Tâm là tận tâm với
tấm lòng trong sáng.
Thứ hai, chữ Trí là phần chủ yếu của tài năng, đó là trí tuệ, bao gồm tầm
nhìn và kiến thức, cái nền của năng lực quản lý.
Trí là tầm nhìn xa trông rộng, biết dự báo nhạy bén, biết đề ra mục tiêu lâu
dài, có những ý tưởng táo bạo và dám mạo hiếm có tính toán. Nhà quản lý
có tầm nhìn chiến lược sẽ không “ăn xổi ở thì, bóc ngắn cắn dài”. Hoạt động
marketing không chỉ ở đầu ra (tiêu thụ), mà trước hết phải là công cụ để xây
dựng chiến lược kinh doanh.
Trí còn có nghĩa là có kiến thức về nhiều mặt liên quan đến hoạt động quản
lý, vừa tổng họp vừa chuyên sâu. Giới nghiên cứu về quản lý ở Pháp đã đưa
ra hướng đào tạo các nhà quản lý hiện đại (cho thế kỷ XXI) theo công thức
Tefpsymspop từ các chữ cái đứng đâu các thuật ngữ: Nhà kỹ thuật
(technicien), Nhà kinh tế (économiste), Nhà tài chính (financier), Nhà tâm lý
(psychologue), Nhà đạo đức học (moraliste), Nhà xã hội học (socialogue),
Nhà sư phạm (pédagoạue), Nhà tổ chức (organisateur), Nhà triết học
(philosophe). Qua đó, ta phải hiểu rằng, nhà quản lý không cần am hiểu sâu
từng mặt đó, mà chỉ là cần có kiến thức nhất định đủ để vận dụng vào thực
tiễn quản lý, trong đó không dàn đều mà có tỷ lệ nhất định tùy cương vị (bao
quát hay chuyên từng phần việc).
Thứ ba, chữ Lực là năng lực làm việc, trong đó có tính lực (sức làm việc trí
óc) và thể lực (sức khoẻ thể chất).
Nhà quản lý có Lực trước hết biết rõ mình phải làm những việc gì, làm như
thế nào, bằng cách gì và dùng phương tiện gì để đạt kết quả cao với chi phí
thấp nhất. Đó là khả năng hoạch định, tổ chức, điều hành, phối họp và kiểm
tra mọi khâu trong guồng máy quản lý, đưa ra được nhiều phương án, qua đó
lựa chọn phương án tối ưu (tốt nhất song khả thi) và các quyết định đúng.
Quản lý thực chất là quản lý con nguồn thông qua con người (ở các cấp quản
lý) để tác động đến đối tượng cuối cùng. Vì vậy, năng lực quản lý được thể
hiện ở năng lực dùng người (trong quan hệ với tổ chức bộ máy).
Lực còn là năng lực tạo ra và khai thác tốt nguồn lực tài chính. Đó là biết
huy động vốn qua các nguồn khác nhau, biết đầu tư đúng và sử dụng có hiệu
quả, biết kiểm soát thu - chi chặt chẽ.
Biết tổ chức công việc của bản thân cũng là một biểu hiện của Lực. Công
việc của nhà quản lý rất nặng nề, phức tạp và căng thẳng, đòi hỏi phải biết
sắp xếp công việc theo thứ tự ưu tiên và phân bố thòi gian, sức lực hợp lý.
Đó là khả năng biết phân công, phân quyền để tránh ôm đồm, bao biện, bỏ
việc lớn làm việc nhỏ.
Lực còn đòi hỏi phong cách làm việc tốt, hài hòa các phong cách quyết đoán
với dân chủ tập t ...