Hồi mới vào bậc trung học đệ nhất cấp khoảng năm sáu tám, sáu chín , lúc ấy ông nội tôi còn tại thế, mỗi lần đi học về, tôi thường lân la với ông để chuyện trò, có những điều không biết tôi thường hỏi ông tôi. Nội tôi có thói quen là đọc sách và uống trà. Sách ông đọc thường bằng chữ Nho, thỉnh thoảng ông vẫn đọc sách quốc ngữ dịch từ tiếng Hán như Tam quốc chí, Thuyết Đường, Đông Chu liệt quốc…...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ấm Trà Đêm Giao Thừa Ấm Trà Đêm Giao ThừaHồi mới vào bậc trung học đệ nhất cấp khoảng năm sáu tám, sáu chín , lúc ấy ông nội tôicòn tại thế, mỗi lần đi học về, tôi thường lân la với ông để chuyện trò, có những điềukhông biết tôi thường hỏi ông tôi. Nội tôi có thói quen là đọc sách và uống trà. Sách ôngđọc thường bằng chữ Nho, thỉnh thoảng ông vẫn đọc sách quốc ngữ dịch từ tiếng Hánnhư Tam quốc chí, Thuyết Đường, Đông Chu liệt quốc… nghe ông nói việc uống trà từrất sớm lúc ấy chắc vào lúc ngoài bốn mươi, tôi còn nhớ những động thái của ông lúc phatrà cũng như lúc uống trà.Thế mới biết thú uống trà cũng công phu quá đổi: ‘nghề chơicũng lắm công phu’.Đầu tiên ông đun nước sôi, không hiểu sao ông nói chỉ ấm đất nước mới ngon pha tràmới tuyệt, lẽ ra phải dùng nước giếng buổi sáng múc từ dưới giếng của nhà cũ của mìnhhình như là mạch nước đó tốt , tôi thì chả hiểu tốt xấu thế nào nhưng rõ ràng là mỗi lầnvề quê những lần nghỉ học là khoái uống ngụm nước giếng quê nhà múc từ giếng, nóngọt ngào làm sao, cái vị ngọt ấy tôi chẳng thể nào quên, nhưng điều kiện ở thành phốkhông có đành chịu, nước thủy cục thì chẳng thể nào bằng, lúc nước sôi bùng ông vẫncòn để trên bếp bớt lửa cứ dùng từ từ, ông tráng ấm, tráng chén , xong đâu đó ông thậntrọng mở lon trà, lon trà làm bằng cạc- tông của Đài Loan màu đỏ, ngoài có viết chữ thảocủa Tàu, có ấm trà và chén trà khói nghi ngút , họa sĩ Đài loan vẽ rất đẹp, bên trong còntráng lớp ny lông. Trà ông thường uống là trà Kim Phát do người Tàu định cư ở QuảngNgãi sản xuất nước có màu xanh thơm lạ thường lúc bấy giờ nó là danh trà ở xứ tôi, thỉnhthoảng ai đó biếu ông bịch trà Đài Loan , ông quý lắm ông cẩn trọng thêm bịch ny –lôngdày buột dây cao su đeo tay kỷ lưỡng lắm, ông nói làm như vậy trà sẽ ít bị bay hơi, mùitrà thơm lâu, rồi ông khum tay dốc trà vào lòng tay mình liều lượng tương đối nhất định,ông bỏ vào bình. Ông tráng ấm, tráng ấm cũng rất điệu nghệ, lắc đều nước quay đều đếnthành miệng ấm mà chẳng ra ngoài, rồi ông dốc bỏ nước ấy, sau đó ông chế tiếp nước sôivào ấm nước đặt trên bếp rề sô nhỏ màu ô liu quân đội ,ba kiềng táo khi không nấu nữathì xếp vào thân gọn gàng lắm, ông rất ngăn nắp vị trí nào ra vị trí nấy. Cái bình trà cũngngộ lắm, nhỏ chút xíu màu gan gà nghe ông nói đó là ấm thời nhà Minh bên Tàu. Đặcbiệt bên dưới in chữ Tàu trong ô vuông , chữ sắc sảo lắm và lại nữa khi ông úp xuống nócùng nằm trên mặt phẳng thẳng tắp ba tiếp điểm vòi bình, miệng bình và quai bình.Bộ bình của ông chẳng hiểu sao có ba chén nhỏ và một chén tống,(có lẽ bể một chénchăng?) nước đầu tiên ông rót cả vào chén tống, rồi ông tiếp tục đỗ nước sôi vào bình lầnhai, đợi ra trà lần nầy ông rót cả vào chén nhỏ, ông rót tuần tự hết vòng tới vòng, trướckhi uống ông đặt vào thành mắt mình cho hơi trà xông vào mắt ông, ông nói rằng nhưvậy sẽ làm mắt sáng hơn, chẳng biết điều nầy đúng hay sai thế nào nhưng sau nầy thỉnhthoảng khi uống trà buổi sáng tôi cũng thường làm như vậy, tôi cũng thấy mắt mình dễchịu.Chuyện uống trà buổi sáng của ông có khi đến 7, 8 giờ sáng mới xong.Khi đâu đấy xong xuôi ông thận trọng lau chùi bình tách và đặt lại đúng vị trí cũ, vàkhông quên phủ lên nó miếng nỉ màu cổ trầu.***Mùa xuân năm ấy, sau khi bàn thờ, nhà cửa được trang trí mới để đón xuân, dù đời sốngcủa cha mẹ tôi là công chức chính phủ tương đối nhưng cái tết cũng bình thường thôi, batôi có thói quen là chơi nhành mai, lỡ năm nào mai đắt đỏ quá ba tôi sai anh tôi về quêchặt mai ở vườn nhà ra chơi, năm nào nhành mai ra nhiều cánh mai sáu cánh là ông và batôi vui lắm vì ông quan niệm rằng mai sáu cánh là hên lắm. trên nhành mai bao giờ cũngcó nhiều thiệp chúc xuân và vài chữ phúc, lộc, thọ vàng mua ở phố về gắn lên.Giao thừa năm ấy, tôi cũng đã lớn . Sau thời khắc giao thừa thiêng liêng, khi cái radionhà tôi bắt đầu lời vang vang chúc tết của Tổng Thống, ba tôi chăm chú nghe, chỗ nàođắc ý thì gục đầu trông có vẻ nghiêm nghị lắm, mẹ tôi thì cứ bảo: ‘mình* lúc nào cũngthời sự’còn ông tôi thì thỉnh thoảng vuốt chòm râu ‘mỹ nhiệm công’** của ông rồi từ tốn:- Đàn ông, ngoài công việc của chính phủ cũng phải hiểu thời sự,con à,mẹ tôi chỉ nghe chứ không trả lời.Lúc bấy giờ chiến tranh đã ác liệt, thường đêm đêm những tiếng pháo cứ ầm ì vào khuvực ngoại thành, thỉnh thoảng cũng vào trong thành mỗi lần như thế là xôn xao cả phố.Thị xã Quảng Ngãi là thị xã nhỏ nên mỗi lần như vậy tôi cũng biết được, chẳng nhữngbiết mà thậm chí tôi hiếu kỳ rủ bạn bè trương lứa cùng xem.Nhang đèn nghi ngút trên bàn thờ, ông tôi pha ấm trà, tết mà, ấm trà Đài Loan chính hiệu,sau khi rót vào ba chén nhỏ xong ông mời ba mẹ tôi uống trà giao thừa, còn chúng tôi thìnáo nức các dĩa bánh trên bàn thờ, khi nào hạ là sẽ được ăn thỏa thích. Lúc làm bánhthuẩn tôi chỉ được hưởng những cái bánh thầy tu (không nở) mà đã thấy ngon lành.- Trà ngon lắm con à, ông tôi nói vậy, ba mẹ tôi cùng ông ngồi uống.- Năm nay đình chiến từ giao ...