Ẩn dụ ý niệm miền dụng cụ nhà bếp trong tục ngữ của người Việt
Số trang: 14
Loại file: pdf
Dung lượng: 710.85 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Thông qua khảo sát và phân tích từ ngữ thuộc miền “dụng cụ nhà bếp” trong tục ngữ của người Việt theo lí thuyết ẩn dụ ý niệm của ngôn ngữ học tri nhận, bài viết đã xác lập tám mô hình ẩn dụ ý niệm. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các từ ngữ loại này trong tục ngữ của người Việt đã ánh xạ đến các miền đích khác nhau.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ẩn dụ ý niệm miền "dụng cụ nhà bếp" trong tục ngữ của người Việt TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 15, Số 3 (2020) ẨN DỤ Ý NIỆM MIỀN “DỤNG CỤ NHÀ BẾP” TRONG TỤC NGỮ CỦA NGƢỜI VIỆT Liêu Thị Thanh Nhàn Khoa Việt Nam học, Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế Email: lieuthithanhnhan@gmail.com Ngày nhận bài: 29/7/2019; ngày hoàn thành phản biện: 13/8/2019; ngày duyệt đăng: 02/10/2019 TÓM TẮT Thông qua khảo sát và phân tích từ ngữ thuộc miền “dụng cụ nhà bếp” trong tục ngữ của người Việt theo lí thuyết ẩn dụ ý niệm của ngôn ngữ học tri nhận, chúng tôi đã xác lập tám mô hình ẩn dụ ý niệm. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các từ ngữ loại này trong tục ngữ của người Việt đã ánh xạ đến các miền đích khác nhau. Đồng thời, chúng tôi cũng đã chỉ ra mối quan hệ giữa ngôn ngữ học tri nhận với tư duy của người Việt trong việc ý niệm hóa các từ ngữ thuộc miền “dụng cụ nhà bếp”. Từ khóa: Ngôn ngữ học tri nhận, ẩn dụ ý niệm, dụng cụ nhà bếp, tục ngữ I. ĐẶT VẤN ĐỀ Tục ngữ là thành phần không thể thiếu trong việc thể hiện tư duy, tình cảm và kinh nghiệm sống quý báu của con người. Mỗi quốc gia đều có sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, địa lí, văn hóa và lịch sử phát triển. Do đó, tục ngữ trong mỗi ngôn ngữ cũng sẽ chứa đựng những đặc sắc dân tộc và đặc trưng văn hóa sâu đậm riêng. Cho nên chúng đã trở thành đối tượng hết sức hấp dẫn đối với các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học. Ẩn dụ đã trở thành một khu vực khảo sát chính của ngữ nghĩa học tri nhận. Trên tất cả, ẩn dụ là một cơ chế hạng nhất dành cho việc “nhìn một sự vật này thông qua từ ngữ chỉ sự vật khác” [2; tr. 298]. Vào những năm 1980 đã có một sự quan tâm nghiên cứu rộng rãi về ẩn dụ, nhưng lực đẩy chủ yếu của sự quan tâm này lại đến từ George Lakoff và Mark Johnson với Metaphors We Live by (Chúng ta sống cùng các ẩn dụ) (1980) [9], một ấn phẩm nền tảng trong ngữ nghĩa học tri nhận. Nó được xem như là sự mở đường cho một thế hệ các nhà ngôn ngữ học mới. Trong tác phẩm của mình, hai tác giả đã đưa ra quan niệm mới về bản chất và chức năng của ngôn ngữ học tri nhận nói chung, ẩn dụ tri nhận nói riêng là nghiên cứu cách con người nhìn và nhận biết thế giới 75 Ẩn dụ ý niệm miền “dụng cụ nhà bếp” trong tục ngữ của người Việt qua lăng kính ngôn ngữ và văn hóa dân tộc. Điều này đã tạo tiền đề cho ngôn ngữ học tri nhận có những bước phát triển mới về lượng và chất. Ở Việt Nam hiện nay, các công trình vận dụng lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận để nghiên cứu tiếng Việt có thể nói là rất nhiều. Tuy nhiên, miền nguồn trong các công trình nghiên cứu này chủ yếu liên quan đến bộ phận cơ thể người, thực vật, động vật, v.v mà ít đề cập đến miền nguồn “đồ vật”. Qua khảo sát, chúng tôi thấy có một vài nghiên cứu có điểm qua miền nguồn “đồ vật”, chẳng hạn: trong bài nghiên cứu “Ẩn dụ ý niệm trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận”, tác giả Đồng Thủy Thảo (2017) đã nhắc đến mô hình ẩn dụ ý niệm là CON NGƢỜI LÀ ĐỒ VẬT từ các biểu thức ngôn ngữ giàu hình ảnh trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận [6]; tương tự, trong bài nghiên cứu “Miền ý niệm sông nước trong tri nhận của người Nam bộ”, tác giả Trịnh Sâm (2013) đã chỉ ra rằng các từ ngữ được sử dụng trong văn hóa rượu của người dân Nam Bộ được xây dựng dựa vào các từ ngữ thuộc miền ý niệm sông nước, ví dụ: “uống tới bến, quắc cần câu, chúi lái, say chúi mũi, v.v”[5]; Luận án Tiến sĩ “Ẩn dụ ý niệm miền đồ ăn trong tiếng Việt”của tác giả Nguyễn Thị Bích Hợp (2015) cũng đã đề cập đến một số từ chỉ “đồ vật” thuộc miền đồ ăn như: bát, mâm, thìa, v.v.[3] Nghiên cứu ngôn ngữ cho thấy, sự tồn tại của một ngôn ngữ bất kỳ đều được quyết định bởi chức năng giao tiếp của nó trong hoạt động xã hội. Từ ngữ thuộc miền nguồn “đồ vật” được sử dụng nhiều trong kho tục ngữ tiếng Việt nên sẽ gây khó khăn cho những ai đang học tập và nghiên cứu loại ngôn ngữ này. Do đó, việc vận dụng lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận để phân tích các từ ngữ thuộc miền “đồ vật” trong tục ngữ tiếng Việt là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một bài báo, chúng tôi chỉ giới hạn nghiên cứu “Ẩn dụ ý niệm miền dụng cụ nhà bếp trong tục ngữ của người Việt”. Ngữ liệu mà chúng tôi sử dụng để nghiên cứu là 120 câu tục ngữ có từ ngữ thuộc miền “dụng cụ nhà bếp” được thống kê từ một bộ công trình có uy tín hiện nay tại Việt Nam, đó là công trình của Nguyễn Xuân Kính và cộng sự (2002), Kho tàng tục ngữ người Việt (Tập 1), Nxb Văn hóa Thông tin [15] và Nguyễn Xuân Kính và cộng sự (2002), Kho tàng tục ngữ người Việt (Tập 2), Nxb Văn hóa Thông tin.[16]. II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận 1.1. Khái niệm về từ ngữ chỉ “đồ vật” Theo tác giả Hoàng Phê (2 ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ẩn dụ ý niệm miền "dụng cụ nhà bếp" trong tục ngữ của người Việt TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 15, Số 3 (2020) ẨN DỤ Ý NIỆM MIỀN “DỤNG CỤ NHÀ BẾP” TRONG TỤC NGỮ CỦA NGƢỜI VIỆT Liêu Thị Thanh Nhàn Khoa Việt Nam học, Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế Email: lieuthithanhnhan@gmail.com Ngày nhận bài: 29/7/2019; ngày hoàn thành phản biện: 13/8/2019; ngày duyệt đăng: 02/10/2019 TÓM TẮT Thông qua khảo sát và phân tích từ ngữ thuộc miền “dụng cụ nhà bếp” trong tục ngữ của người Việt theo lí thuyết ẩn dụ ý niệm của ngôn ngữ học tri nhận, chúng tôi đã xác lập tám mô hình ẩn dụ ý niệm. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các từ ngữ loại này trong tục ngữ của người Việt đã ánh xạ đến các miền đích khác nhau. Đồng thời, chúng tôi cũng đã chỉ ra mối quan hệ giữa ngôn ngữ học tri nhận với tư duy của người Việt trong việc ý niệm hóa các từ ngữ thuộc miền “dụng cụ nhà bếp”. Từ khóa: Ngôn ngữ học tri nhận, ẩn dụ ý niệm, dụng cụ nhà bếp, tục ngữ I. ĐẶT VẤN ĐỀ Tục ngữ là thành phần không thể thiếu trong việc thể hiện tư duy, tình cảm và kinh nghiệm sống quý báu của con người. Mỗi quốc gia đều có sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, địa lí, văn hóa và lịch sử phát triển. Do đó, tục ngữ trong mỗi ngôn ngữ cũng sẽ chứa đựng những đặc sắc dân tộc và đặc trưng văn hóa sâu đậm riêng. Cho nên chúng đã trở thành đối tượng hết sức hấp dẫn đối với các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học. Ẩn dụ đã trở thành một khu vực khảo sát chính của ngữ nghĩa học tri nhận. Trên tất cả, ẩn dụ là một cơ chế hạng nhất dành cho việc “nhìn một sự vật này thông qua từ ngữ chỉ sự vật khác” [2; tr. 298]. Vào những năm 1980 đã có một sự quan tâm nghiên cứu rộng rãi về ẩn dụ, nhưng lực đẩy chủ yếu của sự quan tâm này lại đến từ George Lakoff và Mark Johnson với Metaphors We Live by (Chúng ta sống cùng các ẩn dụ) (1980) [9], một ấn phẩm nền tảng trong ngữ nghĩa học tri nhận. Nó được xem như là sự mở đường cho một thế hệ các nhà ngôn ngữ học mới. Trong tác phẩm của mình, hai tác giả đã đưa ra quan niệm mới về bản chất và chức năng của ngôn ngữ học tri nhận nói chung, ẩn dụ tri nhận nói riêng là nghiên cứu cách con người nhìn và nhận biết thế giới 75 Ẩn dụ ý niệm miền “dụng cụ nhà bếp” trong tục ngữ của người Việt qua lăng kính ngôn ngữ và văn hóa dân tộc. Điều này đã tạo tiền đề cho ngôn ngữ học tri nhận có những bước phát triển mới về lượng và chất. Ở Việt Nam hiện nay, các công trình vận dụng lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận để nghiên cứu tiếng Việt có thể nói là rất nhiều. Tuy nhiên, miền nguồn trong các công trình nghiên cứu này chủ yếu liên quan đến bộ phận cơ thể người, thực vật, động vật, v.v mà ít đề cập đến miền nguồn “đồ vật”. Qua khảo sát, chúng tôi thấy có một vài nghiên cứu có điểm qua miền nguồn “đồ vật”, chẳng hạn: trong bài nghiên cứu “Ẩn dụ ý niệm trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận”, tác giả Đồng Thủy Thảo (2017) đã nhắc đến mô hình ẩn dụ ý niệm là CON NGƢỜI LÀ ĐỒ VẬT từ các biểu thức ngôn ngữ giàu hình ảnh trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận [6]; tương tự, trong bài nghiên cứu “Miền ý niệm sông nước trong tri nhận của người Nam bộ”, tác giả Trịnh Sâm (2013) đã chỉ ra rằng các từ ngữ được sử dụng trong văn hóa rượu của người dân Nam Bộ được xây dựng dựa vào các từ ngữ thuộc miền ý niệm sông nước, ví dụ: “uống tới bến, quắc cần câu, chúi lái, say chúi mũi, v.v”[5]; Luận án Tiến sĩ “Ẩn dụ ý niệm miền đồ ăn trong tiếng Việt”của tác giả Nguyễn Thị Bích Hợp (2015) cũng đã đề cập đến một số từ chỉ “đồ vật” thuộc miền đồ ăn như: bát, mâm, thìa, v.v.[3] Nghiên cứu ngôn ngữ cho thấy, sự tồn tại của một ngôn ngữ bất kỳ đều được quyết định bởi chức năng giao tiếp của nó trong hoạt động xã hội. Từ ngữ thuộc miền nguồn “đồ vật” được sử dụng nhiều trong kho tục ngữ tiếng Việt nên sẽ gây khó khăn cho những ai đang học tập và nghiên cứu loại ngôn ngữ này. Do đó, việc vận dụng lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận để phân tích các từ ngữ thuộc miền “đồ vật” trong tục ngữ tiếng Việt là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một bài báo, chúng tôi chỉ giới hạn nghiên cứu “Ẩn dụ ý niệm miền dụng cụ nhà bếp trong tục ngữ của người Việt”. Ngữ liệu mà chúng tôi sử dụng để nghiên cứu là 120 câu tục ngữ có từ ngữ thuộc miền “dụng cụ nhà bếp” được thống kê từ một bộ công trình có uy tín hiện nay tại Việt Nam, đó là công trình của Nguyễn Xuân Kính và cộng sự (2002), Kho tàng tục ngữ người Việt (Tập 1), Nxb Văn hóa Thông tin [15] và Nguyễn Xuân Kính và cộng sự (2002), Kho tàng tục ngữ người Việt (Tập 2), Nxb Văn hóa Thông tin.[16]. II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận 1.1. Khái niệm về từ ngữ chỉ “đồ vật” Theo tác giả Hoàng Phê (2 ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Ngôn ngữ học tri nhận Ẩn dụ ý niệm Dụng cụ nhà bếp Văn hóa dân tộc Phân loại ẩn dụ ý niệmGợi ý tài liệu liên quan:
-
9 trang 207 0 0
-
Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Quy chiếu thời gian trong tiếng Việt từ góc nhìn Ngôn ngữ học tri nhận
201 trang 166 0 0 -
9 trang 162 0 0
-
Bàn về ẩn dụ ý niệm 水 nước với con người trong tiếng Hán
7 trang 143 0 0 -
Tiểu luận: Giới thiệu chung về không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
10 trang 133 0 0 -
10 trang 128 0 0
-
4 trang 117 0 0
-
Ẩn dụ ý niệm mùa xuân trong thơ Xuân Diệu và thơ Sonnet của William Shakespeare
7 trang 106 0 0 -
Truyền thống văn hóa & phương pháp xây dựng văn hóa dân tộc: Phần 1
88 trang 104 0 0 -
Phân tích thành ngữ bốn chữ tiếng Trung chủ đề 'tính cách – thái độ con người'
7 trang 97 0 0