Ảnh hưởng của hàm lượng protein và lipid trong thức ăn công nghiệp đến tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm hùm xanh (Panulirus homarus Linnaeus, 1758) giai đoạn nuôi thương phẩm
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 801.79 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Thí nghiệm kéo dài trong 8 tuần nhằm đánh giá ảnh hưởng của hàm lượng protein và lipid trong thức ăn đến sinh trưởng của tôm hùm xanh giai đoạn nuôi thương phẩm. Kết quả thí nghiệm cho thấy có sự sai khác ý nghĩa về tốc độ tăng trưởng đặc trưng (SGR), tăng trưởng đạt được theo tuần (AWG), hệ số tăng trưởng tương đối theo ngày (DGC) và tỷ lệ sống của tôm hùm xanh thí nghiệm khi cho ăn thức ăn có hàm lượng protein và lipidkhác nhau.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ảnh hưởng của hàm lượng protein và lipid trong thức ăn công nghiệp đến tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm hùm xanh (Panulirus homarus Linnaeus, 1758) giai đoạn nuôi thương phẩmTaïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2010VAÁN ÑEÀ NGHIEÂN CÖÙUẢNH HƯỞNG CỦA HÀM LƯỢNG PROTEIN VÀ LIPID TRONG THỨCĂN CÔNG NGHIỆP ĐẾN TĂNG TRƯỞNG VÀ TỶ LỆ SỐNG CỦA TÔMHÙM XANH (Panulirus homarus Linnaeus, 1758) GIAI ĐOẠN NUÔITHƯƠNG PHẨMEFFECTS OF DIETARY PROTEIN AND LIPID IN PELLETED FEEDS ON GROWTHAND SURVIVAL OF SCALLOPED SPINY LOBSTER (Panulirus homarus Linnaeus, 1758)AT GROW-OUT STAGELại Văn Hùng, Phạm Đức HùngKhoa Nuôi trồng Thủy sản, Đại học Nha TrangTóm tắtThí nghiệm kéo dài trong 8 tuần nhằm đánh giá ảnh hưởng của hàm lượng protein và lipid trong thức ănđến sinh trưởng của tôm hùm xanh giai đoạn nuôi thương phẩm. Ba mức protein (52%, 55% và 58%) và 3 mứclipid (7%, 9% và 11%) được tổ hợp thành 9 loại thức ăn khác nhau: 58P:7L (NT1); 58P:9L (NT2); 58P:11L(NT3); 55P:7L (NT4); 55P:9L (NT5); 55P:11L (NT6); 52P:7L (NT7); 52P:9L (NT8); 52P:11L (NT9). Tômhùm xanh có khối lượng trung bình 58,70 ± 2,50 g được bố trí ngẫu nhiên vào các ô lồng (2 m x 2 m x 4 m) vớisố lượng 10 con/lồng. Mỗi nghiệm thức được lặp lại ba lần. Kết quả thí nghiệm cho thấy có sự sai khác ý nghĩavề tốc độ tăng trưởng đặc trưng (SGR); tăng trưởng đạt được theo tuần (AWG); hệ số tăng trưởng tương đốitheo ngày (DGC) và tỷ lệ sống của tôm hùm xanh thí nghiệm khi cho ăn thức ăn có hàm lượng protein và lipidkhác nhau. Kết quả phân tích cũng cho thấy thức ăn có hàm lượng protein 52 % và lipid 11 % là thích hợp nhấtcho sự phát triển của tôm hùm xanh giai đoạn nuôi thương phẩm.AbstractAn experiment was conducted in sea-cage to evaluate the effects of dietary protein and lipid in diets onthe growth performance of scalloped spiny lobster. Three protein levels (52%, 55% and 58%) and three lipidlevels (7%, 9% and 11%) were combined into nine different diets: 58P: 7L (NT1); 58P: 9L (NT2) 58P: 11L(NT3); 55P: 7L (NT4) 55P: 9L (NT5) 55P: 11L (NT6) 52P: 7L (NT7) 52P: 9L (NT8) 52P: 11L (NT9).Lobsterswith weight average of 58.70 ± 2.50 g were randomly distributed into 27 sea-cages (2 mx 2 m x 4 m/cage) with10 animals per cage.Each treatment was replicated three times.Results showed that there were significantdifference in specific growth rate (SGR); average weekly gain (AWG), daily growth coefficient (DGC) and thesurvival rate of lobsters which were fed diets with different protein and lipid level.The analytical results alsoshowed that the feed with 52% protein and 11% lipid is suitable for the development of scalloped spiny lobsterat grow-out stage.I - ĐẶT VẤN ĐỀtrung bình tuy nhiên chúng có giá trị kinh tế caoTôm hùm xanh (Panulirus homarus) lànên hiện đang được nghiên cứu và nuôi ở mộtnhững đối tượng nuôi biển có tốc độ tăng trưởngsố nước trên thế giới như: New Zealand, ViệtTRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG v 53Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2010Nam, Úc, Philippines (Smith et al., 2003; Tuanđẩy nhanh chóng nghề nuôi tôm hùm ở Việt& Mao, 2004; Williams et al., 2005. Ở Việt Nam,Nam cũng như trên thế giới.nghề nuôi tôm hùm bắt đầu từ năm 1992, đếnII - VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊNnay nghề nuôi tôm hùm lồng đang phát triểnCỨUmạnh, số lượng lồng đã tăng lên đáng kể, năm2.1. Tôm hùm thí nghiệm1999 là 7.289 lồng, năm 2000 tăng lên 17.216Đối tượng nghiên cứu là tôm hùm xanhlồng, năm 2005 số lồng nuôi đã tăng lên 43.516(Panulirus homarus Linnaeus, 1758) giai đoạnlồng (trong đó có 3.061 lồng ương tôm giống),thương phẩm. Tôm hùm xanh được thuần chovới sản lượng 1.795 tấn (Bộ Thủy Sản, 2006).quen với điều kiện môi trường tại đảo Bình BaTrong nghề nuôi tôm hùm ở Việt Nam, cá tạp,- Cam Ranh trong 2 tuần trước khi bắt đầu thícua, ghẹ sò nhỏ được xem là nguồn thức ăn chủnghiệm. Sau đó tôm hùm xanh có khối lượng trungyếu. Tuy nhiên việc sử dụng nguồn thức ăn nàybình 58,70 g/con được bố trí ngẫu nhiên vào trongcó những bất lợi như gây ô nhiễm môi trường,các lồng với mật độ 10 con/lồng (kích thước lồng:cạnh tranh nguồn cá tạp với các mục đích sử2m x 2m x 4m) . Lồng nuôi được bố trí tại khu vựcdụng khác: thực phẩm cho con người, thức ănđảo Bình Ba - Cam Ranh (Khánh Hòa) với nhiệtcho gia súc, gia cầm..., người nuôi không chủđộ dao động trong khoảng 28 ÷ 30 0C và độ mặnđộng nguồn thức ăn nhất là mùa mưa bão (Tuan32 ÷ 35‰ (Hình 1 & 2). Chín nghiệm thức đượcet al., 2000).bố trí ngẫu nhiên hoàn toàn, mỗi nghiệm thứcĐể khắc phục tình trạng trên, hướng nghiênđược lặp lại 3 lần. Tôm được cho ăn 1 lần/ngàycứu sản xuất thức ăn tổng hợp dạng viên chovào lúc 18 giờ. Ngoài thức ăn thí nghiệm, tômnuôi tôm hùm lồng là rất cần thiết (Lê Anh Tuấn,hùm được cho ăn thêm thức ăn cá tạp 1 lần/tuần2005). Tuy vậy những thông tin về dinh dưỡngnhằm kích thích tính bắt mồi của tôm thí nghiệm.và nghiên cứu sử dụ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ảnh hưởng của hàm lượng protein và lipid trong thức ăn công nghiệp đến tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm hùm xanh (Panulirus homarus Linnaeus, 1758) giai đoạn nuôi thương phẩmTaïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2010VAÁN ÑEÀ NGHIEÂN CÖÙUẢNH HƯỞNG CỦA HÀM LƯỢNG PROTEIN VÀ LIPID TRONG THỨCĂN CÔNG NGHIỆP ĐẾN TĂNG TRƯỞNG VÀ TỶ LỆ SỐNG CỦA TÔMHÙM XANH (Panulirus homarus Linnaeus, 1758) GIAI ĐOẠN NUÔITHƯƠNG PHẨMEFFECTS OF DIETARY PROTEIN AND LIPID IN PELLETED FEEDS ON GROWTHAND SURVIVAL OF SCALLOPED SPINY LOBSTER (Panulirus homarus Linnaeus, 1758)AT GROW-OUT STAGELại Văn Hùng, Phạm Đức HùngKhoa Nuôi trồng Thủy sản, Đại học Nha TrangTóm tắtThí nghiệm kéo dài trong 8 tuần nhằm đánh giá ảnh hưởng của hàm lượng protein và lipid trong thức ănđến sinh trưởng của tôm hùm xanh giai đoạn nuôi thương phẩm. Ba mức protein (52%, 55% và 58%) và 3 mứclipid (7%, 9% và 11%) được tổ hợp thành 9 loại thức ăn khác nhau: 58P:7L (NT1); 58P:9L (NT2); 58P:11L(NT3); 55P:7L (NT4); 55P:9L (NT5); 55P:11L (NT6); 52P:7L (NT7); 52P:9L (NT8); 52P:11L (NT9). Tômhùm xanh có khối lượng trung bình 58,70 ± 2,50 g được bố trí ngẫu nhiên vào các ô lồng (2 m x 2 m x 4 m) vớisố lượng 10 con/lồng. Mỗi nghiệm thức được lặp lại ba lần. Kết quả thí nghiệm cho thấy có sự sai khác ý nghĩavề tốc độ tăng trưởng đặc trưng (SGR); tăng trưởng đạt được theo tuần (AWG); hệ số tăng trưởng tương đốitheo ngày (DGC) và tỷ lệ sống của tôm hùm xanh thí nghiệm khi cho ăn thức ăn có hàm lượng protein và lipidkhác nhau. Kết quả phân tích cũng cho thấy thức ăn có hàm lượng protein 52 % và lipid 11 % là thích hợp nhấtcho sự phát triển của tôm hùm xanh giai đoạn nuôi thương phẩm.AbstractAn experiment was conducted in sea-cage to evaluate the effects of dietary protein and lipid in diets onthe growth performance of scalloped spiny lobster. Three protein levels (52%, 55% and 58%) and three lipidlevels (7%, 9% and 11%) were combined into nine different diets: 58P: 7L (NT1); 58P: 9L (NT2) 58P: 11L(NT3); 55P: 7L (NT4) 55P: 9L (NT5) 55P: 11L (NT6) 52P: 7L (NT7) 52P: 9L (NT8) 52P: 11L (NT9).Lobsterswith weight average of 58.70 ± 2.50 g were randomly distributed into 27 sea-cages (2 mx 2 m x 4 m/cage) with10 animals per cage.Each treatment was replicated three times.Results showed that there were significantdifference in specific growth rate (SGR); average weekly gain (AWG), daily growth coefficient (DGC) and thesurvival rate of lobsters which were fed diets with different protein and lipid level.The analytical results alsoshowed that the feed with 52% protein and 11% lipid is suitable for the development of scalloped spiny lobsterat grow-out stage.I - ĐẶT VẤN ĐỀtrung bình tuy nhiên chúng có giá trị kinh tế caoTôm hùm xanh (Panulirus homarus) lànên hiện đang được nghiên cứu và nuôi ở mộtnhững đối tượng nuôi biển có tốc độ tăng trưởngsố nước trên thế giới như: New Zealand, ViệtTRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG v 53Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2010Nam, Úc, Philippines (Smith et al., 2003; Tuanđẩy nhanh chóng nghề nuôi tôm hùm ở Việt& Mao, 2004; Williams et al., 2005. Ở Việt Nam,Nam cũng như trên thế giới.nghề nuôi tôm hùm bắt đầu từ năm 1992, đếnII - VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊNnay nghề nuôi tôm hùm lồng đang phát triểnCỨUmạnh, số lượng lồng đã tăng lên đáng kể, năm2.1. Tôm hùm thí nghiệm1999 là 7.289 lồng, năm 2000 tăng lên 17.216Đối tượng nghiên cứu là tôm hùm xanhlồng, năm 2005 số lồng nuôi đã tăng lên 43.516(Panulirus homarus Linnaeus, 1758) giai đoạnlồng (trong đó có 3.061 lồng ương tôm giống),thương phẩm. Tôm hùm xanh được thuần chovới sản lượng 1.795 tấn (Bộ Thủy Sản, 2006).quen với điều kiện môi trường tại đảo Bình BaTrong nghề nuôi tôm hùm ở Việt Nam, cá tạp,- Cam Ranh trong 2 tuần trước khi bắt đầu thícua, ghẹ sò nhỏ được xem là nguồn thức ăn chủnghiệm. Sau đó tôm hùm xanh có khối lượng trungyếu. Tuy nhiên việc sử dụng nguồn thức ăn nàybình 58,70 g/con được bố trí ngẫu nhiên vào trongcó những bất lợi như gây ô nhiễm môi trường,các lồng với mật độ 10 con/lồng (kích thước lồng:cạnh tranh nguồn cá tạp với các mục đích sử2m x 2m x 4m) . Lồng nuôi được bố trí tại khu vựcdụng khác: thực phẩm cho con người, thức ănđảo Bình Ba - Cam Ranh (Khánh Hòa) với nhiệtcho gia súc, gia cầm..., người nuôi không chủđộ dao động trong khoảng 28 ÷ 30 0C và độ mặnđộng nguồn thức ăn nhất là mùa mưa bão (Tuan32 ÷ 35‰ (Hình 1 & 2). Chín nghiệm thức đượcet al., 2000).bố trí ngẫu nhiên hoàn toàn, mỗi nghiệm thứcĐể khắc phục tình trạng trên, hướng nghiênđược lặp lại 3 lần. Tôm được cho ăn 1 lần/ngàycứu sản xuất thức ăn tổng hợp dạng viên chovào lúc 18 giờ. Ngoài thức ăn thí nghiệm, tômnuôi tôm hùm lồng là rất cần thiết (Lê Anh Tuấn,hùm được cho ăn thêm thức ăn cá tạp 1 lần/tuần2005). Tuy vậy những thông tin về dinh dưỡngnhằm kích thích tính bắt mồi của tôm thí nghiệm.và nghiên cứu sử dụ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Hàm lượng protein trong thức ăn công nghiệp Tỷ lệ sống của tôm hùm xanh Phát triển nuôi trồng thủy sản Nuôi thử nghiệm tôm hùm thương phẩm Thức ăn cho tôm hùm bôngTài liệu liên quan:
-
Đánh giá tính bền vững trong phát triển nuôi trồng thủy sản tại Việt Nam
12 trang 29 0 0 -
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển nuôi trồng thủy sản tỉnh Trà Vinh
98 trang 26 0 0 -
Giáo trình Nuôi trồng thủy sản đại cương: Phần 1 - Nguyễn Quang Linh
102 trang 26 1 0 -
Quyết định số 1664/2021/QĐ-TTg
17 trang 26 0 0 -
3 trang 25 0 0
-
Phân tích chi phí lợi ích phục hồi rừng ngập mặn đầm Thị Nại, tỉnh Bình Định
5 trang 23 0 0 -
Nghiên cứu nguồn gốc sự tăng trưởng ngành nuôi trồng thủy sản của tỉnh Phú Yên
5 trang 22 0 0 -
Nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nuôi tôm tại tỉnh Trà Vinh
14 trang 21 0 0 -
7 trang 21 0 0
-
9 trang 20 0 0