Ảnh hưởng của sự hiện diện nữ giới trong ban lãnh đạo đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận - nghiên cứu thực nghiệm tại các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
Số trang: 12
Loại file: pdf
Dung lượng: 514.99 KB
Lượt xem: 39
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của sự hiện diện nữ giới trong Hội đồng quản trị (HĐQT) và Ban giám đốc (BGĐ) đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận (ĐCLN) dựa trên báo cáo tài chính (BCTC) và Báo cáo thường niên (BCTN) của 163 công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ chí Minh (HOSE) trong 6 năm.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ảnh hưởng của sự hiện diện nữ giới trong ban lãnh đạo đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận - nghiên cứu thực nghiệm tại các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh 26 Trần Thị Giang Tân và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 57(6), 26-37<br /> <br /> ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ HIỆN DIỆN NỮ GIỚI TRONG<br /> BAN LÃNH ĐẠO ĐẾN HÀNH VI ĐIỀU CHỈNH LỢI NHUẬN NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TẠI CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT<br /> TRÊN SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH<br /> TRẦN THỊ GIANG TÂN<br /> Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh - tran_giangtan@yahoo.com<br /> ĐINH NGỌC TÚ<br /> Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh - dinhtu@ueh.edu.vn<br /> (Ngày nhận: 02/07/2017; Ngày nhận lại: 03/08/2017; Ngày duyệt đăng: 25/09/2017)<br /> TÓM TẮT<br /> Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của sự hiện diện nữ giới trong Hội đồng quản trị (HĐQT) và Ban<br /> giám đốc (BGĐ) đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận (ĐCLN) dựa trên báo cáo tài chính (BCTC) và Báo cáo thường<br /> niên (BCTN) của 163 công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ chí Minh (HOSE) trong 6<br /> năm. Kết quả phân tích bằng mô hình hồi quy bình phương tối thiểu tổng quát - Generalized Least Squares (GLS)<br /> cho thấy, số lượng nữ giới trong HĐQT có mối tương quan nghịch với hành vi ĐCLN. Tuy nhiên, nếu số lượng<br /> thành viên nữ trong HĐQT kiêm nhiệm việc điều hành công ty là cao thì hành vi ĐCLN tăng lên. Kết quả nghiên<br /> cứu này có thể giúp hoàn thiện quản trị công ty trong việc đa dạng hóa giới tính, giúp kiểm toán viên nhận diện khả<br /> năng xuất hiện hành vi ĐCLN trên BCTC và giúp người sử dụng BCTC một góc nhìn khác - góc nhìn về giới tính cần quan tâm khi đánh giá chất lượng thông tin của BCTC.<br /> Từ khóa: Giám đốc điều hành; Giới tính Nữ; Hành vi điều chỉnh lợi nhuận; Hội đồng quản trị.<br /> <br /> The presence of women on Board and in top management and earnings management<br /> behaviour – Evidence from Ho Chi Minh City listed companies<br /> ABSTRACT<br /> The research aims to investigate the presence of women on Board and in top management and earnings<br /> management behaviour. The data have been collected from the financial statements and annual reports of 163 listed<br /> companies in HOSE during a period of six years. The study has used Generalized Least Squares (GLS) regression<br /> model. It shows that the presence of women on the board and in top management has a reverse impact on earnings<br /> management behavior. Nevertheless, we realise that if the number of female Executives and Board Directors<br /> increases, earnings management behavior will change correspondingly. It is clear about the impact of women on<br /> Board and in top management on earnings management.This study helps to improve corporate governance in gender<br /> diversity. In addition, it is useful for external auditors to identify earnings management behaviour, as well as for<br /> financial statement users to evaluate the data.<br /> Keywords: Board of Directors; CEO; Earnings management behaviour; Females.<br /> <br /> 1. Giới thiệu<br /> Lợi nhuận là một trong những tiêu chí<br /> quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động<br /> kinh doanh của một doanh nghiệp, do vậy,<br /> đây cũng là một chỉ tiêu mà nhà quản lý<br /> thường điều chỉnh nhằm đạt được mục tiêu<br /> của mình. Hành vi ĐCLN là một trong những<br /> <br /> chủ đề thu hút sự chú ý giới học thuật trong<br /> nhiều thập niên qua vì hành vi này làm thông<br /> tin trên BCTC không còn đáng tin cậy. Sau<br /> các sự cố về gian lận trên BCTC xảy ra vào<br /> đầu thế kỷ 21 như Enron, Worlcom, rất nhiều<br /> nghiên cứu đã thực hiện để xem xét động cơ<br /> và đặc điểm quản trị công ty ảnh hưởng đến<br /> <br /> Trần Thị Giang Tân và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 57(6), 26-37 27<br /> <br /> hành vi này. Trong vài thập niên gần đây,<br /> nhiều nghiên cứu đã phát triển theo hướng tìm<br /> hiểu mối liên hệ giữa hành vi này với giới tính<br /> của BGĐ và HĐQT. Một trong những lý do<br /> giải thích cho hướng nghiên cứu này là nhiều<br /> quốc gia đã đưa ra quy định về tỷ lệ nữ giới<br /> bắt buộc trong HĐQT, chẳng hạn như ở Na<br /> Uy, tỷ lệ này là 40% (quy định có hiệu lực thi<br /> hành là tháng 1 năm 2008). Quy định này sau<br /> đó cũng được thực hiện ở một số quốc gia<br /> khác như Tây Ban Nha, Bỉ và Hòa Lan.<br /> Khá nhiều nghiên cứu trên thế giới đã<br /> chứng minh sự hiện diện của phụ nữ trong<br /> HĐQT hay kiêm nhiệm Giám đốc điều hành<br /> (CEO) sẽ có ảnh hưởng đến hành vi ĐCLN<br /> trên BCTC ở các công ty niêm yết (Peni,<br /> 2010; Gulzar & Wang, 2011; Gavious & cộng<br /> sự, 2012; Lakhal & cộng sự, 2015; Arun &<br /> cộng sự, 2015…). Lý do là vì phụ nữ thường<br /> được cho là có đạo đức tốt hơn (Betz & cộng<br /> sự, 1989), ít chấp nhận rủi ro và hành vi phi<br /> đạo đức hơn (trong đó gồm cả hành vi ĐCLN<br /> (Krishnan & Parsons, 2008)).<br /> Tại Việt Nam trong thời gian qua, hành vi<br /> ĐCLN đã xảy ra khá phổ biến tại các công ty<br /> niêm yết. Nhiều nghiên cứu sử dụng số liệu<br /> BCTC của các công ty niêm yết tại Việt Nam<br /> để chứng minh hành vi này (thí dụ như nghiên<br /> cứu của Phạm Thị Bích Vân, 2012). Một số<br /> nghiên cứu khác đi theo hướng xem xét đặc<br /> điểm quản trị công ty ảnh hưởng đến hành vi<br /> ĐCLN (Trần Thị Giang Tân & Trương Thị<br /> Thùy Dương, 2016). D ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ảnh hưởng của sự hiện diện nữ giới trong ban lãnh đạo đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận - nghiên cứu thực nghiệm tại các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh 26 Trần Thị Giang Tân và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 57(6), 26-37<br /> <br /> ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ HIỆN DIỆN NỮ GIỚI TRONG<br /> BAN LÃNH ĐẠO ĐẾN HÀNH VI ĐIỀU CHỈNH LỢI NHUẬN NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TẠI CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT<br /> TRÊN SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH<br /> TRẦN THỊ GIANG TÂN<br /> Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh - tran_giangtan@yahoo.com<br /> ĐINH NGỌC TÚ<br /> Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh - dinhtu@ueh.edu.vn<br /> (Ngày nhận: 02/07/2017; Ngày nhận lại: 03/08/2017; Ngày duyệt đăng: 25/09/2017)<br /> TÓM TẮT<br /> Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của sự hiện diện nữ giới trong Hội đồng quản trị (HĐQT) và Ban<br /> giám đốc (BGĐ) đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận (ĐCLN) dựa trên báo cáo tài chính (BCTC) và Báo cáo thường<br /> niên (BCTN) của 163 công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ chí Minh (HOSE) trong 6<br /> năm. Kết quả phân tích bằng mô hình hồi quy bình phương tối thiểu tổng quát - Generalized Least Squares (GLS)<br /> cho thấy, số lượng nữ giới trong HĐQT có mối tương quan nghịch với hành vi ĐCLN. Tuy nhiên, nếu số lượng<br /> thành viên nữ trong HĐQT kiêm nhiệm việc điều hành công ty là cao thì hành vi ĐCLN tăng lên. Kết quả nghiên<br /> cứu này có thể giúp hoàn thiện quản trị công ty trong việc đa dạng hóa giới tính, giúp kiểm toán viên nhận diện khả<br /> năng xuất hiện hành vi ĐCLN trên BCTC và giúp người sử dụng BCTC một góc nhìn khác - góc nhìn về giới tính cần quan tâm khi đánh giá chất lượng thông tin của BCTC.<br /> Từ khóa: Giám đốc điều hành; Giới tính Nữ; Hành vi điều chỉnh lợi nhuận; Hội đồng quản trị.<br /> <br /> The presence of women on Board and in top management and earnings management<br /> behaviour – Evidence from Ho Chi Minh City listed companies<br /> ABSTRACT<br /> The research aims to investigate the presence of women on Board and in top management and earnings<br /> management behaviour. The data have been collected from the financial statements and annual reports of 163 listed<br /> companies in HOSE during a period of six years. The study has used Generalized Least Squares (GLS) regression<br /> model. It shows that the presence of women on the board and in top management has a reverse impact on earnings<br /> management behavior. Nevertheless, we realise that if the number of female Executives and Board Directors<br /> increases, earnings management behavior will change correspondingly. It is clear about the impact of women on<br /> Board and in top management on earnings management.This study helps to improve corporate governance in gender<br /> diversity. In addition, it is useful for external auditors to identify earnings management behaviour, as well as for<br /> financial statement users to evaluate the data.<br /> Keywords: Board of Directors; CEO; Earnings management behaviour; Females.<br /> <br /> 1. Giới thiệu<br /> Lợi nhuận là một trong những tiêu chí<br /> quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động<br /> kinh doanh của một doanh nghiệp, do vậy,<br /> đây cũng là một chỉ tiêu mà nhà quản lý<br /> thường điều chỉnh nhằm đạt được mục tiêu<br /> của mình. Hành vi ĐCLN là một trong những<br /> <br /> chủ đề thu hút sự chú ý giới học thuật trong<br /> nhiều thập niên qua vì hành vi này làm thông<br /> tin trên BCTC không còn đáng tin cậy. Sau<br /> các sự cố về gian lận trên BCTC xảy ra vào<br /> đầu thế kỷ 21 như Enron, Worlcom, rất nhiều<br /> nghiên cứu đã thực hiện để xem xét động cơ<br /> và đặc điểm quản trị công ty ảnh hưởng đến<br /> <br /> Trần Thị Giang Tân và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 57(6), 26-37 27<br /> <br /> hành vi này. Trong vài thập niên gần đây,<br /> nhiều nghiên cứu đã phát triển theo hướng tìm<br /> hiểu mối liên hệ giữa hành vi này với giới tính<br /> của BGĐ và HĐQT. Một trong những lý do<br /> giải thích cho hướng nghiên cứu này là nhiều<br /> quốc gia đã đưa ra quy định về tỷ lệ nữ giới<br /> bắt buộc trong HĐQT, chẳng hạn như ở Na<br /> Uy, tỷ lệ này là 40% (quy định có hiệu lực thi<br /> hành là tháng 1 năm 2008). Quy định này sau<br /> đó cũng được thực hiện ở một số quốc gia<br /> khác như Tây Ban Nha, Bỉ và Hòa Lan.<br /> Khá nhiều nghiên cứu trên thế giới đã<br /> chứng minh sự hiện diện của phụ nữ trong<br /> HĐQT hay kiêm nhiệm Giám đốc điều hành<br /> (CEO) sẽ có ảnh hưởng đến hành vi ĐCLN<br /> trên BCTC ở các công ty niêm yết (Peni,<br /> 2010; Gulzar & Wang, 2011; Gavious & cộng<br /> sự, 2012; Lakhal & cộng sự, 2015; Arun &<br /> cộng sự, 2015…). Lý do là vì phụ nữ thường<br /> được cho là có đạo đức tốt hơn (Betz & cộng<br /> sự, 1989), ít chấp nhận rủi ro và hành vi phi<br /> đạo đức hơn (trong đó gồm cả hành vi ĐCLN<br /> (Krishnan & Parsons, 2008)).<br /> Tại Việt Nam trong thời gian qua, hành vi<br /> ĐCLN đã xảy ra khá phổ biến tại các công ty<br /> niêm yết. Nhiều nghiên cứu sử dụng số liệu<br /> BCTC của các công ty niêm yết tại Việt Nam<br /> để chứng minh hành vi này (thí dụ như nghiên<br /> cứu của Phạm Thị Bích Vân, 2012). Một số<br /> nghiên cứu khác đi theo hướng xem xét đặc<br /> điểm quản trị công ty ảnh hưởng đến hành vi<br /> ĐCLN (Trần Thị Giang Tân & Trương Thị<br /> Thùy Dương, 2016). D ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Ảnh hưởng hiện diện nữ giới Lãnh đạo nữ giới Hành vi điều chỉnh lợi nhuận Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí MinhGợi ý tài liệu liên quan:
-
293 trang 302 0 0
-
Bài tiểu luận môn Thị trường lao động: Thị trường lao động thành phố Hồ chí Minh giai đoạn 2010-2015
35 trang 157 0 0 -
Mối quan hệ giữa dòng tiền và đầu tư của doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam
3 trang 154 0 0 -
Thủ tục công nhận làng nghề truyền thống
5 trang 144 0 0 -
Sở giao dịch chứng khoán trong thời kỳ hội nhập và quốc tế hóa
6 trang 137 0 0 -
17 trang 126 0 0
-
12 trang 110 0 0
-
19 trang 100 0 0
-
Quyết định số 66/2012/QĐ-UBND
17 trang 88 0 0 -
Yếu tố tác động đến hiệu quả kinh doanh: Thực tiễn các công ty chứng khoán Việt Nam
3 trang 67 0 0