Mấy đứa trẻ xóm trên kêu bà là mụ Năm khùng; chị Lan, chị Liễu gọi là cô Năm, dì Năm; tụi tôi hay gọi bằng cái tên chẳng biết từ đâu mà có- bà Năm Lẳng. Ủa mà sao họ gọi là bà Năm Lẳng vậy Năm? Chắc họ nghĩ tao khùng nên gọi vậy. Mà tao đâu có khùng. Tao biết làm việc, biết giữ tiền không tiêu xài hoang phí thì khùng sao đặng. Bà thọc vào trong mấy lớp áo, rút cái ruột tượng, lôi ra mớ tiền mới tinh xếp ngay ngắn khoe với tụi...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bà Năm Lẳng Bà Năm Lẳng TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN HỮU TÀIMấy đứa trẻ xóm trên kêu bà là mụ Năm khùng; chị Lan, chị Liễu gọi là cô Năm, dìNăm; tụi tôi hay gọi bằng cái tên chẳng biết từ đâu mà có- bà Năm Lẳng.Ủa mà sao họ gọi là bà Năm Lẳng vậy Năm? Chắc họ nghĩ tao khùng nên gọi vậy. Màtao đâu có khùng. Tao biết làm việc, biết giữ tiền không tiêu xài hoang phí thì khùng saođặng. Bà thọc vào trong mấy lớp áo, rút cái ruột tượng, lôi ra mớ tiền mới tinh xếp ngayngắn khoe với tụi tôi. Bây coi đó, tao giàu không? Cả bon trố mắt nhìn đống tiền mà thánphục.Nhà bà là chái bếp phía sau hậu liêu của đình Vĩnh Phú. Không cửa không nẻo, chỉ làgian phòng tro bụi bám đầy qua bao năm tháng thời gian. Trường cấp một của tôi nằmgọn trong khuôn viên đình. Người ta mượn ba gian phòng cũ, sơn sửa lại, đóng bàn ghếlàm nơi dạy bọn trẻ nít trong thôn. Trường có sáu lớp, chia làm hai buổi học suốt tuần.Nhỏ xíu chẳng biết tên trường, nhưng khi có ai hỏi Bây học ở đâu?, tôi ưỡn ngực nóichen lẫn chút tự hào: Dạ con học trường Đình đó chú!Bà Năm là em gái của ông từ giữ đình. Thuở xưa là một nhan sắc có tiếng của làng củaxóm. Rồi bà có chồng, sanh một lèo mấy đứa con. Chiến tranh tàn khốc đi qua, chồngmất, con thơ thất lạc tứ phương, bà phát điên từ dạo đó. Từ sáng tới tối, bà lê lết đầu trênxóm dưới, mặt mũi lem luốt, áo quần nhàu nát, tóc tai bù xù đầy chí mẹ chí con. Bà đứnggiữa đường chửi trời chửi đất, chửi tổ tiên cha đứa nào đã thả bom cho chồng tao chết,con tao trốn biệt không về. Chửi mệt thì xin thức ăn nước uống lót dạ lấy hơi rồi...chốngnạnh chửi tiếp. Mấy đứa cháu lúc đầu còn chạy kéo về, sau đó mệt quá lại để yên vì theohoài không khắp.Lũ con thơ của bà, nghe đâu có người sang tới Mỹ, có đứa sống ở miền núi cao nguyên.Mà cũng nghe thôi chứ chưa thấy bao giờ về thăm mẹ. Bà ở với anh con trai thứ hai. Mắtto, mũi cao thừa hưởng nét đẹp của mẹ. Đắng cay thay, anh cũng hưởng luôn cái bệnhnửa điên nửa tỉnh. Anh mặc áo quần chắp vá, lấy mền cột phía sau làm khăn choàng, tôson điểm phấn, tay cầm khúc gỗ, đứng giữa sân ứ ự tam quân điều binh khiển tướng rồivô luôn một câu vọng cổ Trời...ơi...bởi sa cơ giữa chiến trường thọ tiễn nên Võ Đông Sơđành chia tay vĩnh viễn Bạch Thu...Hà... Bà Năm nhảy tưng tưng, vỗ tay như sấm, cườihớn hở. Nhiều lúc hứng quá, bà đứng dậy, ra bộ múa may, nức nở như Bạch Thu Hà khócvĩnh biệt chàng Võ Đông Sơ. Ở nhà vài hôm, anh lại xông áo xông quần bỏ đi biệt tíchchẳng biết đâu lần. Ông từ thương em gái, lôi bà về cho ở phía sau hậu liêu đình đểnương nhờ phước đức của đấng tiền hiền linh hiển. Mà hay thật, bà tỉnh táo, không la hétquậy phá dù đôi lúc cũng nổi cơn điên.Ngày nào cũng thế, tờ mờ sáng, bà thức dậy chắp tay vái hai ông Thiện Ác, ra trướcđường ăn tô bún cho no bụng rồi cầm chổi cau quét mớ lá vú sữa, mãng cầu rơi đầy sân,dồn vô một góc rồi châm lửa đốt. Khói bay mù đất mù trời. Bà bỏ chổi, ngồi trước sân,bỏm bẻm nhai trầu nhổ bèn bẹt. Tụi tôi đi ngang qua, vòng tay, dạ tụi con chào bà Năm.Ừa tụi bây ráng đi học cho giỏi, ăn nhiều cho mau lớn. Mà nhớ không được xả rác đầysân nhen, tao quét mệt lù. Rồi không được đi đái bậy. Mắc thì ra sông mà đái chớ khôngđược xỉa vô nhà tao. Hôi rình sao tao chịu nổi? Đứa nào không nghe để tao bắt gặp lầnnữa là xẻo chim nhen. Tụi tôi le lưỡi cười khúc khích.Mặt trời qua khỏi mái ngói, bà xắn quấn xắn áo, nhảy ùm xuống sông ngụp lặn bắt ốc mòcua mãi tới trưa. Bà leo lên bờ, bày mấy con hến, con nghêu và những con ốc bươu đenthui nung núc thịt trên tấm nhựa bên vệ đường bán kiếm vài đồng bạc. Bà không bán lẻ,chỉ bán luôn mớ. Mà tính toàn tiền...triệu, mỗi triệu là một ngàn. Ngày nào kiếm cũngđược vài...triệu đủ mua cá gạo, thêm mấy liễn trầu, phây phây không sợ đói.Lúc ra chơi, tụi tôi hay ghé lại nhà, đứng ngoài chỉ trỏ đống tam phủ bùi nhùi bà nhặtnhạnh mấy chục năm qua. Áo quần treo như mắc cửi, nồi niêu xoong chảo móc tứ lungtung, mớ khoai lang sùng, mấy cái chổi chà dựng ở góc sân. Bà ngồi trong bếp, miệngmóm mém nhai hột mít luộc. Ăn hông bây? Bùi ghê. Vô đây tao cho một mớ. Tụi tôi lắcđầu, dạ thôi Năm ăn đi, tụi con ghé thăm Năm tí rồi vô học. Đôi khi có đứa vô tình chọcgiận, bà nổi cơn điên, cầm chổi rượt chạy có cờ. Chừa nhé!Bà ở trong cái xó bếp ấy tới mấy mươi năm dâu bể. Ngày nắng cũng như mưa, nhiêu việclàm hoài thành một thói quen không bỏ được. Mỗi khi trái gió trở trời, bà không dậy nổi,sân đình lá rụng bay đầy trong gió. Tụi con nít ngó quẩn ngó quanh rồi rồng rắn kéo vàocoi thử bà Năm Lẳng hôm nay bị gì mà không...quét rác!Lên lớp bốn, trường chuyển tụi tôi về khu Đức Trí tít bên thôn ba. Lắm lúc nhớ trườngcũ, cả bọn kéo lên thăm bà. Nhìn mặt bọn trẻ, nửa lạ nửa quen, lờ mờ hổng nhớ đã gặp ởđâu rồi, bà chỉ cười, moi tiền ra đếm, lôi hột mít ra mời ăn lấy thảo.Xa nhà, đi cùng trời cuối đất, thỉnh thoảng nhớ về những năm tháng tuổi thơ ngòn ngọt,chợt nhận ra trong một góc ...