Việt Nam có dòng nhạc “Ngũ cung” là một loại hình âm nhạc dân tộc chính thống, bên cạnh đó còn có các dòng nhạc khác như : nhạc Hoa, nhạc Chăm, nhạc Khmer, nhạc Tây Nguyên… Mỗi loại hình âm nhạc các tộc người chỉ mang tính sinh hoạt, giá trị tinh thần trong phạm vi của tộc đó, ít mang tính phổ biến rộng rãi trong cộng đồng quốc gia. Đây cũng là nét khu biệt giữa các loại hình. Riêng dòng nhạc “Ngũ cung” thì mang tính phố biến rộng rãi cả nước và như thể đại...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ba trường phái của dòng nhạc ngũ cung : nhạc lễ - tài tử - cải lương
Ba trư ng phái c a dòng nh c
ngũ cung : nh c l - tài t - c i lương
Vi t Nam có dòng nh c “Ngũ cung” là m t lo i hình âm nh c dân t c
chính th ng, bên c nh ó còn có các dòng nh c khác như : nh c Hoa, nh c
Chăm, nh c Khmer, nh c Tây Nguyên… M i lo i hình âm nh c các t c
ngư i ch mang tính sinh ho t, giá tr tinh th n trong ph m vi c a t c ó, ít
mang tính ph bi n r ng rãi trong c ng ng qu c gia. ây cũng là nét khu
bi t gi a các lo i hình. Riêng dòng nh c “Ngũ cung” thì mang tính ph bi n
r ng rãi c nư c và như th i di n khi có m t trên th gi i, v i ba trư ng
phái : nh c L - tài t - c i lương.
T nhã nh c cung ình
Sau khi nhà Nguy n th ng nh t t nư c (1802), hoàng Gia Long
b t u s p x p l i các nghi l và ông ã ý th c v các trình th c, ph i dùng
âm nh c trong các i l : Quan – Hôn – Tang -T và giao cho m t quan
nh c trong B L i ph trách. Ban nh c ư c tuy n ch n t dân gian, là
nh ng ngh nhân tài ba, r i vào cung ình t ch c l i theo quy c và lo i
hình âm nh c này ư c g i là “Nhã nh c cung ình”, n n t ng nguyên lí c a
nó là Ngũ cung, hay còn ư c g i là Ngũ âm. Cũng xin nói thêm, nhà
Nguy n t kinh ô t i Hu su t hơn m t th k v i 13 tri u i (1802 –
1945), nên còn g i là “Nhã nh c cung ình Hu ”, ngày nay g i là nh c L .
Nhưng lúc này ch có khí nh c, ch chưa có thanh nh c, t c nh c không có
l i ca. Dàn nh c ư c cơ c u theo hai hình th c cơ b n : T tuy t g m b n
nh c khí : KÌm – Cò - Tranh – Tùy ; Ngũ tuy t g m 5 nh c khí : Kìm – Cò –
Tranh – Tùy – Tam (chưa có guitar phím lõm). Còn có hai b nh c khí n a
là b gõ g m : Tr ng ch u (tr ng i), tr ng trung, tr ng ti u, b c u, ch p
chõa, mõ… B hơi g m : ba lo i kèn ( i trung ti u), tiêu, sáo trúc… n
i vua Thanh Thái (1889 –1907), v hoàng này l i h chi u ưa nb u
vào dàn nh c cung ình, g i là c huy n c m.
Dòng âm nh c lãng m n phương Nam
Hàng năm, l l c ( i l ) ch m y l n ho c hi m khi ón ti p vua
quan, nên th i giưn Ban nh c r t r nh r i. Lúc này, vùng t phương Nam
mênh mông và hoang hóa, nhưng trư c ó ã có nhi u n n văn hóa khác
nhau, như : Chăm, Hoa, Khmer… và ã xu t hi n Hò, Lý, Hát ru trong dân
gian, nhưng chưa có m t h th ng nào nh t nh. Các ngh nhân tài ba m i ý
th c dùng Nhã nh c k t h p Hò, Lý, Hát ru dân gian sáng ch l i ca cho các
giai i u khí nh c, ng th i phát tri n thêm nhi u giai i u m i, t c là dòng
âm nh c m i ra i trên cơ s nh c L , g i là “Nh c tài t Nam B ”
(NTTNB).
Bên c nh ó, các sĩ phu t mi n Trung theo phong trào C n Vương
vào Nam ch ng Pháp, m t s nho sĩ ra kinh thành ng thí r i tr v Nam
cũng mang theo chút v n li ng ca nh c Hu , r i k t h p v i các ngh nhân
trong Nam mà sáng tác thêm nhi u giai i u m i, g i là bài b n tài t , sáng
tác l i ca cho t t c bài b n… Lúc này, dòng âm nh c chính th ng ra i có
c khí nh c và thanh nh c, t c là nh c có l i ca. T s tranh ua, thi th tài
ngh c a các ngh nhân, lo i hình ngh thu t này nh hình và chia thành
trư ng phái, ban, nhóm như : trư ng phái mi n ông, mi n Tây. n i
Hàm Nghi (1884-1885), thì dòng NTTNB ã tr thành phong trào phát tri n
r ng kh p Nam kì l c t nh (Nam B : ba t nh mi n ông, ba t nh mi n Tây),
tiêu bi u cho trư ng phái mi n ông là nhóm c a ngh nhân Nguy n Quang
i (Ba i), tiêu bi u cho nhóm mi n Tây là nhóm c a ngh nhân Nguy n
Quang Qu n (kí l ch Qu n). Mi n Tây còn có m t trư ng phái n a là lò
nh c Kh (Lê Tài Kh ) B c Liêu. Cũng xin nói thêm, ban nh c tài t lúc
này không s d ng n b gõ, còn b hơi ch s d ng nh c Tiêu ho c Sáo
trúc mà thôi. Dàn nh c ư c cơ c u cũng theo T tuy t ho c Ngũ tuy t như
ã nói trên, ngh nhân n Kìm ư c suy tôn là th y n (nh c trư ng gi
song loan).
Bi n th t s - tr tình
Nói v n t t, dòng NTTNB qua quá trình phát tri n m y mươi năm
nh hình thì nó l i phát sinh m t hình th c m i, t m g i là th i kì quá ,
ó là hình th c “ca ra b ” cũng là bu i giao th i gi a NTTNB và sân kh u
C i lương (SKCL). B i hình th c nguyên th y c a NTTNB là thính phòng,
t c ca nghe ch không ph i xem, còn hình th c ca ra b là v a nghe,
v a xem. Vì ngư i ca lúc này, l c ng, lúc ng i và v a ca, v a ra i u b
minh h a theo n i dung l i ca.
Th i kì u c a SKCL, dàn nh c c v n gi biên ch như T tuy t
hay Ngũ tuy t và ngư i n Kìm v n gi vai trò nh c trư ng n m song loan
su t n năm 1975. M c dù, t th p niên 40, guitar phím lõm và violon ã
xu t hi n trong dàn nh c c c i lương. Giai o n 15 năm th i hoàng kim
nh t c a SKCL (1975-1990), cơ c u dàn nh c c i lương v n nh hình như
th , nhưng nhi u ơn v ngh thu t lúc này, có nơi do nh c công guitar phím
lõm gi vai trò nh c trư ng n m song loan. T năm 1990 n nay, dàn nh c
c c a SKCL m t n nh và tr t t cơ c u b phá v v i nh ...