Danh mục

Ba Vát - một di chỉ khảo cổ ở Bến Tre

Số trang: 4      Loại file: pdf      Dung lượng: 112.77 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 4,000 VND Tải xuống file đầy đủ (4 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Di chỉ khảo cổ học Ba Vát nằm ở xã Phước Mỹ Trung, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre, được Viện khảo cổ học cùng với Sở Văn hoá-Thông tin và Bảo tàng Bến Tre tiến hành khai quật từ ngày 24/11/2003 đến ngày 24/1/2004. Tại đây đoàn khai quật đã tiến hành đào 2 hố khai quật có ký hiệu là 03.BV.H1, 03.BV.H2 và một hố thám sát có ký hiệu 03.BV.TS. 1. Hiện vật phát hiện được tại hố 03.BV.H1 Hố 03.BV.H1 được mở với diện tích 30m2 (3m x 10m) nằm tại vườn sau nhà ông Võ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ba Vát - một di chỉ khảo cổ ở Bến Tre Ba Vát - một di chỉ khảo cổ ở Bến Tre Di chỉ khảo cổ học Ba Vát nằm ở xã Phước Mỹ Trung, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre, được Viện khảo cổ học cùng với Sở Văn hoá-Thông tin và Bảo tàng Bến Tre tiến hành khai quật từ ngày 24/11/2003 đến ngày 24/1/2004. Tại đây đoànkhai quật đã tiến hành đào 2 hố khai quật có ký hiệu là 03.BV.H1, 03.BV.H2 vàmột hố thám sát có ký hiệu 03.BV.TS.1. Hiện vật phát hiện được tại hố 03.BV.H1Hố 03.BV.H1 được mở với diện tích 30m2 (3m x 10m) nằm tại vườn sau nhà ôngVõ Văn Hòa, khu 1, ấp Phước Khánh, xã Phước Mỹ Trung, huyện Mỏ Cày, tỉnhBến Tre. Nằm dọc theo hướng Đông – Tây, cách bờ Đông của sông Ba Vát 61,6m,hố này được đào sâu khoảng 1,4m, điạ tầng có 4 lớp đất: Lớp mặt màu nâu nhạtkhá xốp, lớp 2 có màu xám, lớp 3 đất sét màu vàng, lớp 4 đất sét xám.Hiện vật được phát hiện rất nhiều mảnh gốm men trắng xanh, trắng đục, men nâu.Có tất cả 80 mảnh gốm tìm được ở độ sâu từ đất mặt đến 0,55m.Đa số hiện vật phát hiện ở hố này có niên đại kéo dài từ cuối thế kỷ 18 đến thế kỷ19 sang đầu thế kỷ 20. Trong đó có 14 hiện vật có thể nhận diện đ ược loại hìnhnhư bát, đĩa, bình vôi,… được trang trí hoa văn rất đa dạng, phong phú như hoa lácách điệu, đường sóng gấp khúc, song hỷ, rồng, hoa cúc, cây chuối. Đây l à nhữngmảnh gốm và đồ gốm men Việt Nam.Đồ gốm men Trung Quốc tìm thấy ở đây cùng niên đại với đồ gốm men Việt Namcó số lượng tương đối lớn gồm 354 mảnh gốm và 86 chiếc chén, dĩa, bát, muỗngđược tráng men trắng xanh vẽ lam, men đơn sắc, men trắng vẽ màu xanh lá cây.Các trang trí trên đồ gốm Trung Quốc được phát hiện tại đây khá phong phú nhưchữ thọ, chữ phúc tròn, song hỷ, rồng chầu mặt nguyệt, trúc lâm thất hiền, kỳ lân,tứ quý, phong cảnh sơn thủy, hình hoa cúc. Qua kiểm kê cho thấy mô típ trang tríhình rồng chầu mặt nguyệt rất phổ biến ở giai đoạn này.Ngoài đồ gốm men Việt Nam và Trung Quốc được phát hiện, trong hố khai quậtnày cũng đã thu được 25 mảnh sành tráng men chủ yếu là tráng men màu nâu đen,đen và da lươn, và hơn 3.000 mảnh sành không tráng men và một số loại hiện vậtkhác như sắt, đá mài, thủy tinh, xương, răng, tiền đồng, gáo dừa, cọc gỗ, sanhô,…với số lượng ít. Chúng là loại hiện vật thường được tìm thấy trong các di chỉcư trú.2. Hiện vật phát hiện được tại hố 03.BV.H2Hố 03.BV.H2 được mở với diện tích 10m2 (5m x 2m) nằm tại vườn trước nhà ôngNguyễn Văn Thôi, khu 1, ấp Phước Khánh, xã Phước Mỹ Trung, huyện Mỏ Cày,tỉnh Bến Tre. Hố hình chữ nhật nằm theo hướng Bắc – Nam, cách hố 03.BV.H1 vềhướng Đông Bắc 43,3m, cách bờ Đông sông Ba Vát 70m. Đồ gốm men Việt Namphát hiện ở đây có tổng số 23 mảnh, có niên đại thế kỷ 19 – 20 và 14 hiện vật hồmmuỗng, chén, đĩa cùng niên đại.Đồ gốm men Trung Quốc tìm được gồm 9 mảnh tráng men. Trong đó niên đạicuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 có 1 mảnh tráng men trắng vẽ lam, cuối thế kỷ 19đầu thế kỷ 20 tìm được 4 mảnh men trắng xanh vẽ lam và 4 mảnh tráng men trắngđơn sắc.Về loại hình gốm men cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20, tìm được 1 mảnh bát trángmen trắng vẽ lam, 1 mảnh muỗng men trắng đ ơn sắc.Đồ sành có hơn 100 mảnh, có tráng men và không men. Ngoài ra còn các hiện vậtkhác như đá mài (1 chiếc), cọc gỗ (1 chiếc), tiền đồng (1 đồng).3. Hố 03.BV.TSHố 03.BV.TS được mở tại nhà ông Trần Văn Trị, ấp Phước Khánh, xã Phước MỹTrung, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre. Hố có diện tích 2,25m2 (1,5m x 1,5m), nằmcách hố 03.BV.H2 15,8m về hướng Tây – Bắc và cách bờ Đông sông Ba Vát85,8m. Hố thám sát này không tìm thấy hiện vật, khi đào đến độ sâu khoảng 1,2mthì nước vào nên không thể tiếp tục đào được nữa.Dựa vào kết quả điều tra thám sát tháng 3/2003 và kết quả của đợt khai quật tại địađiểm khảo cổ Ba Vát, đoàn khảo cổ đưa ra nhận xét:Theo sách “Gia Định Thành Thông Chí” và “Đại Nam Nhất Thống Chí” đều chép:Ba Việt mà nay là chợ Ba Vát vừa là lỵ sở của huyện Tân Minh vừa là một tiểucảng thị, phố xá đông đúc, thuyền vào ra tấp nập, được hình thành từ cuối thế kỷ17, phát triển mạnh vào thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Ba Vát còn là một chợ lớn vensông, người ta lấy sông làm đường giao thông chính cho nên nhà cửa cũng bámvào mặt sông để tiện lợi cho việc sinh hoạt cũng như buôn bán, trao đổi hàng hóa.Nơi đây diễn ra các hoạt động thương mại nhộn nhịp, trong đó có vai trò quantrọng của các thương nhân Việt và Hoa và khu vực này thực sự đã từng là một thịtứ phồn thịnh trong lịch sử vào giai đoạn đầu thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 19, đếncuối thế kỷ 19 thì Ba Vát mất dần vị trí vốn có của nó. Việc phát hiện rất nhiều đồgốm Trung Quốc chất lượng cao ở đây cho thấy cư dân thời đó đã sử dụng vàbuôn bán những mặt hàng có giá trị lớn. Dựa vào niên đại của hai hố khai quật, tathấy hố 03.BV.H1 có niên đại từ khoảng cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 20, hố03.BV.H2 có niên đại tập trung vào khoảng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Qua đócho thấy cư dân Ba Vát trong giai đoạn cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 chủ yếu sinhsống ở phía gần sông. Bước sang cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 thì mới lan rộng racác nơi xa sông hơn.Ngoài ra, cũng năm 2003, trong quá trình đào ao nuôi cá, ông Nguyễn Văn Tư (ấpPhước Lý, xã Phước Mỹ Trung, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre) đã phát hiện một hũtiền kim loại trên phần đất nhà có diện tích 4.200 m2. Tiếp đến, vào tháng 2/2006cũng tại nơi đây ông lại phát hiện thêm một hũ tiền khác. Tổng số tiền là 109 kg,trong đó đợt một 69 kg, đợt hai 40 kg. Hai hũ tiền kim loại này có nhiều loại tiềncủa các triều đại khác nhau, từ tiền thời Đường, Tống (Trung Quốc), tiền NhậtBản đến các loại tiền của Việt Nam như tiền thời Lý, Trần, Hồ, Lê, Tây Sơn,Nguyễn,…và một số lượng lớn tiền chưa xác định được niên đại. Phát hiện nàycàng khẳng định những nhận xét của các nhà khoa học là có cơ sở. ...

Tài liệu được xem nhiều: