Bagan Nơi ấy lòng ta chợt hóa thành quách cũBagan, bầu trời màu cam huyền ảo và ấm áp. Các ngôi tháp cổ thức dậy cùng với bình minh, đốt cháy mình trong ánh nắng chói chang và thiếp ngủ khi hoàng hôn buông xuống. Những hình ảnh đó từng thấp thoáng hiện ra trong các giấc mơ của tôi, từ trước khi tôi đặt chân đến Miến Điện, xứ sở của những ngôi đền. Lối xưa xe ngựa...Miến Điện (Myanmar), khi còn nhỏ, tôi cứ ngỡ đó là một xứ nào xa xôi lắm. Nhưng ngày nay, chỉ mất...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bagan Nơi ấy lòng ta chợt hóa thành quách cũ Bagan Nơi ấy lòng ta chợt hóa thành quách cũBagan, bầu trời màu cam huyền ảo và ấm áp. Các ngôi tháp cổ thức dậy cùng với bìnhminh, đốt cháy mình trong ánh nắng chói chang và thiếp ngủ khi hoàng hôn buôngxuống.Những hình ảnh đó từng thấp thoáng hiện ra trong các giấc mơ của tôi, từ trước khi tôiđặt chân đến Miến Điện, xứ sở của những ngôi đền.Lối xưa xe ngựa...Miến Điện (Myanmar), khi còn nhỏ, tôi cứ ngỡ đó là một xứ nào xa xôi lắm. Nhưngngày nay, chỉ mất vài giờ bay là bạn có thể đến được đất nước còn khá khép kín vớithế giới này. Và, chỉ thêm hơn một giờ nữa trên chiếc máy bay nội địa cũ mèm, tôi đãcó thể nhìn thấy Bagan, vùng đất trong những giấc mơ của mình.Vốn ít vận động nên chúng tôi quyết định chọn xe ngựa thay vì xe đạp như nhiều kháchTây balô khi đi thăm các ngôi đền trong bình nguyên rộng tới hơn 40km2 này. Chủ nhàtrọ nơi chúng tôi ở giới thiệu chúng tôi với Moe Thu, người đánh xe ngựa có nước dangăm đen và khuôn mặt trầm lặng. Sau tiếng hô ngắn của Moe Thu, chú ngựa hunggiật mình cất bước, chiếc xe lắc lư đưa chúng tôi rời thị trấn Nyaung U.Nằm bên rìa khu Bagan cổ, Nyaung U đã trở thành điểm dừng chân lý tưởng của đa sốdu khách đến Bagan. Thị trấn nhỏ này hầu như chưa bị tác động nhiều bởi du lịch, trừvài nhà hàng, quán trọ đơn sơ vắng khách. Trên đường đi, chúng tôi ghé qua mộtxưởng sản xuất parasol, một loại dù bằng giấy căng trên khung tre đặc trưng của ngườiđịa phương. Trong ánh nắng buổi sớm, các chàng trai quấn váy longyi miệng nhai trầuđỏ tươi, phơi parasol ra trước cửa. Những cánh parasol đủ màu sáng bừng trong nắngnhư một đàn bươm bướm đang sà xuống sân.Những con đường quê Bagan sao mà bình yên, trong trẻo! Hai bên đường rất nhiềucây cổ thụ, mấy người ôm không xuể. Mùa khô cây rụng lá, cả thảm lá vàng trải ra nhưmời gọi ta dừng vó ngựa. Nắng thì vàng rịm như mật ong nhưng không khí lại thanhmát, chẳng chút oi nồng.Đến khúc quanh đầu tiên, chúng tôi rời đường nhựa, rẽ vào con đường đất hẹp. Khungcảnh Bagan mùa khô thật ngoạn mục, có chút gì đó hoang dã phảng phất hơi hướmchâu Phi. Hai bên đường là vô số đền tháp với đủ hình dáng và niên đại. Chiếc xengựa chở chúng tôi lướt qua khung cảnh ấy như đi ngược thời gian trở về quá khứ,hiện tại giờ chỉ còn như làn bụi mỏng rớt lại phía sau.Lòng ta là những thành quách cũKhông ai biết được chính xác có bao nhiêu ngôi đền cổ ở Bagan, chỉ biết trong hơn 200năm trị vì từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIII, các vị vua Bagan đã cho xây trung bình 20 ngôiđền mỗi năm. Sau nhiều thế kỷ bị cướp bóc và thiên nhiên tàn phá, hơn 4.000 ngôi đềncổ đã bị hủy hoại hơn một nửa, chỉ còn khoảng 2.000 đền tồn tại đến ngày nay. Những ngôi đền tháp đủ hình dáng, niên đại làm nên vẻ đẹp của BaganTuy không đồ sộ và tinh xảo nhưng các ngôi đền Bagan quyến rũ nhờ vẻ đẹp mộc mạcvà thuần khiết. Trừ một số ít đền bằng sa thạch, đa số đều được xây bằng gạch nung,thứ vật liệu gần gũi từ đất và như đất. Do vậy, mỗi ngôi đền ở Bagan cũng giống nhưmột bông hoa của đất, sinh ra và lớn lên trên đất.Phần lớn đền chùa ở đây có kiến trúc khá đơn giản, không có nhiều chi tiết trang trí bênngoài. Điều khiến tôi ấn tượng nhất khi nhìn ngắm quần thể này là những tháp nhọntrên các nóc đền. Trong các tài liệu đọc được, tôi không tìm thấy lời giải thích về nguồngốc hình dạng búp tròn và thon dài của tháp ở đây. Vì thế, trong trí tưởng tượng củatôi, những ngọn tháp này tượng trưng cho các búp sen hay ngọn nến thờ mà nhữngPhật tử thành kính dâng lên đức Phật như mô tả trong tranh tường ở các ngôi đền.Sẽ là một thiếu sót lớn nếu không nhắc đến những bức tranh tường và thiết kế bêntrong đền ở Bagan. Mỗi lần bước vào một ngôi đền, tôi lại thích mê cách xử lý ánh sángtheo nguyên tắc “không gian không có ánh sáng mà ánh sáng ở bên trong không gian”đầy tính tâm linh của các kiến trúc sư cổ. Theo cách đó, mỗi ngôi đền thường có bốnhành lang chạy dọc theo các cạnh và bốn căn phòng nhỏ thờ Phật ở các góc. Những khuôn mặt Phật và người phúc hậu, viên mãnTôi vẫn nhớ cảm giác hồi hộp khi lần đầu tiên đứng trong hành lang dài và tối của mộtngôi đền. Và, khi mắt tôi đã quen dần với bóng tối, những bức tranh vẽ trên tường nhưcũng dần sáng rõ lên. Không cầu kỳ tinh xảo như tranh tường ở các nhà thờ châu Âu,cũng không phức tạp, khó hiểu như ở Ai Cập, tranh tường ở Bagan có vẻ đẹp dịu dàngvà mềm mại như được vẽ trên lụa. Từ trong bóng tối, những khuôn mặt Phật, mặtngười phúc hậu và tròn đầy trong tranh như tỏa ra một thứ ánh sáng riêng - ánh sángcủa sự bình yên và hy vọng.Đi tìm ánh mặt trờiDân đi du lịch thường có thói quen so sánh những nơi mình đã đi qua, nên mới cónhững “Paris phương Đông” hay “Venice phương Bắc”. Nhưng, tôi thật không thể hiểuvì sao Bagan lại được so sánh với Angkor của Campuchia. Trong mắt tôi, Bagan vàAngkor đối lập với nhau như mặt trời và mặt trăng, như lửa và nước. Ấn tượng vềAngkor trong tôi là nhữ ...