Khi người An Nam nói đến kỳ lân thì họ nghĩ đó là một từ duy nhất, nhưng theo các từ điển của Trung Hoa thì đấy là một từ kép: con kỳ và con lân, kỳ là con đực và lân là con cái. Do vậy, khi một người An Nam chỉ cho bạn xem hình vẽ trên bình phong hay bức chạm trên trụ đá và nói đó là kỳ lân, bạn nên hiểu đó là con kỳ hay con lân, tức con đực hay con cái. Từ điển của Gibrel ghi: Kỳ lân, “licorne, sphinx” (ngựa một...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài 6: HỌA TIẾT HÌNH THÚ – CON LÂN
Bài 6: HỌA TIẾT HÌNH THÚ –
CON LÂN
Khi người An Nam nói đến kỳ lân thì họ nghĩ đó là một từ duy nhất, nhưng theo các
từ điển của Trung Hoa thì đấy là một từ kép: con kỳ và con lân, kỳ là con đực và
lân là con cái. Do vậy, khi một người An Nam chỉ cho bạn xem hình vẽ trên bình
phong hay bức chạm trên trụ đá và nói đó là kỳ lân, bạn nên hiểu đó là con kỳ hay
con lân, tức con đực hay con cái.
Từ điển của Gibrel ghi: Kỳ lân, “licorne, sphinx” (ngựa một sừng, nhân sư) và chua
thêm: “loài chim thần thoại” (oiseau fabuleux). Đó là vi ông muốn diễn tả con đực là
kỳ và con cái là lân, điều đó quả chính xác là vậy.[1]
Từ điển của Paulus Của nói cần phận biệt rõ kỳ là con đực và lân là con cái, Nhưng
ông lưu ý là hai từ này luôn dùng đi đôi với nhau chứ không tách ra, Dựa vào thư
tịch Trung Hoa ông giải thích đó là con vật giống sư tử, có một sừng ở giữa trán và
là một trong tứ linh. Đứng về mặt phong tục, kỳ lân là con vật có lòng nhân, tốt
bụng; nó chẳng bao giờ dẫm lên cỏ non, chẳng làm hại ai cả; chỉ những vì thánh
vương[2] mới được gặp nó. Vì có tính nhân hậu như vậy nên có thành ngữ ‘lân giác’
tức sừng con lân cái, nghĩa là thứ vũ khí vô hại[3].
Từ điển tiếng Hoa của Giles, Eitel, Couvreur cho những thông tin sau: Kỳ lân là con
vật thần thoại thiêng liêng, có mình nai, đuôi bò, một sừng, phủ vảy cá, … Chiếc
sừng này bằng thịt hàm chỉ tính nhân hậu của con thú này; dù có khả năng chiến
đấu và chiến thắng nhưng kỳ lân rất chuộng hòa bình. Tuy nhiên có điểm bất đồng
về chiếc sừng này, Eitel và Couvreur đều cho rằng kỳ là con đực không có sừng hay
một loài thú nào đó giống con lân mà thôi.
Chi tiết này dù thế nào đi nữa thì kỳ lân có tính nhân hậu như trong truyền thuyết:
con vật này chẳng bao giờ đi trên sinh vật sống và chẳng bao giờ ăn cỏ tươi; sừng
của nó là biểu tượng cho lòng yêu hòa bình.
“Dấu chân của Kỳ lân” dùng chỉ nòi giống vua chúa, và “lân giác” chỉ hoàng thái tử.
Trên kiệu cưới người ta hay ghi dòng chữ “Kỳ lân tại thử” (麒麟在此) có nghĩa “kỳ
lân ở nơi này[4]”; và câu “Gót kỳ lân mang lại may mắn” là lời chúc dành cho trẻ
em.
Còn đây là lời chú thêm của P. Corentin Pétillon[5]: Sự xuất hiện của kỳ lân báo
hiệu sự ra đời của thánh vương và luôn luôn là điềm lành. Kỳ lân có dáng vẽ: mình
hươu, đuôi bò, đầu sói có một sừng với đầu sừng là núm thịt, móng ngựa. Người ta
gọi kỳ lân là nhân thú là vì nó có bản năng tự nhiên khi bước đi cẩn thậm không
đạp chết côn trùng hay giẫm lên cây cỏ còn sống dù là vật bé nhỏ nhất. Khó mà đào
hầm giăng lưới bắt được kỳ lân vì nó hết sức khôn ngoan tránh được mọi thứ bẫy.
Vậy mà kinh thư lại nói chuyện bắt được kỳ lân khiến Khổng Tử ngậm ngùi rơi lệ.
Khổng Tử rơi lệ là vì khi ngài đản sinh có con kỳ lân xuất hiện mang đến nhà ngài
tấm thẻ ngọc có ghi câu: “Đứa trẻ khôn ngoan này sẽ là vị vua không ngai vào thời
nhà Chu suy tàn”. Mẹ Khổng Tử bắt lấy kỳ lân và dùng vải lụa cột lại; nhưng hôm
sau con vật biến mất. Mãi lâu sau có người thợ săn bắt được kỳ lân mang dãi lụa,
Khổng Tử nhận ra đó là con kỳ lân lúc ngài đản sinh. Ngài cầm lấy dãi lụa đầm đìa
nước mắt vì biết khi kỳ lân xuất hiện lần thứ hai ngài sắp không còn tại thế nữa.
Như tôi đã nói người An Nam quen gọi lân hay kỳ lân, nhưng cũng có khi lại gọi là
long mã, nghĩa là con vật vừa có tính chất rồng vừa có tính chất ngựa, thể hiện trên
các bình phong. Truyền thống Trung Hoa thì phân biệt rõ long mã với kỳ lân, người
An Nam thì không vậy.
Kỳ lân được dùng làm họa tiết trang trí trên các bình phong trong các đền chùa
(hình CLV; CLVI, CLVII). Dối với người An Nam khi thì là kỳ lân, khi thì là long
mã. Nó luôn mang trên lưng cổ đồ (bức đồ xưa); người An Nam dù là dân giả, nho
gia, thợ nề hay nhà điêu khắc đều gọi đó là “cổ đồ”. Chữ cổ đồ Hán Việt này trùng
âm với chữ Nôm nên dễ nhầm. Tôi thích hình cổ đồ của vua Phục Hi trên lưng con
kỳ lân hơn trên lưng long mã của Trung Hoa. Theo truyền thuyết vị hoàng đế thần
thoại này xem bức cổ đồ này mà nghĩ ra âm-dương, từ âm dương chồng lên nhau
lập thành bát quái, rồi 64 quẻ. Hình vua thấy đầu tiên đó họi là Hà Đồ (bứcvẽ trên
sông Hoàng Hà). Một truyền thuyết khác về bát quái nói vua Hoàng Đế lấy từ lưng
con rùa[6].
Dù gì trên các bức bình phong hình con lân thỉnh thoảng có mang trên lưng bánh xe
tám cạnh của bát quái. Trong trường hợp này ẩn dụ về vua Phục Hy rõ ràng rồi.
Còn với bức đồ cổ thì được thể hiện bằng bó sách hay bằng hai phiến chữ, hoặc
cuộn giấy; đôi lúc mấy thứ trên còn được gắn thêm cây bút lông hay cây quạt, hoặc
thanh gươm. Chẳng biết như thế là do ngẫu hứng của tác giả hay do không biết mà
vẽ như vậy (hình CLV). Tôi chẳng hiểu vì sau mấy món đó lại được diễn giải thành
‘cổ đồ’như đã nói ở trên. Tuy nhiên món chính lai liên quan đến việc viết lách, đến
khoa học: cuốn sách, phiến chữ, cuộn giấy, cây bút. Chúng có thể diễn giải thành ‘cổ
đồ’ của vua Phục Hy và với ‘bát quái’ . Đó là kinh dịch, cuốn sách kỳ bí làm nền
tảng cho thuật bói toán, cho ...