Bụng ngoại khoa là một tình huống cấp cứu về bụng mà xử trí đòi hỏi cần can thiệp phẫu thuật cấp cứu. Cấp cứu bụng ngoại khoa là một cấp cứu rất thường gặp trong các khoa cấp cứu tại tất cả các bệnh viện các cấp, các trung tâm y tế và các cơ sở y tế. Cùng tìm hiểu "Bài giảng Bụng ngoại khoa" để nắm bắt nội dung thông tin về vấn đề này.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài giảng Bụng ngoại khoa - TS. BS Lâm Việt Trung BỤNG NGOẠI KHOA TS. BS. Lâm Việt TrungBụng ngoại khoa là một tình huống cấp cứu về bụng mà xử trí đòi hỏi cần can thiệp phẫuthuật cấp cứu. Cấp cứu bụng ngoại khoa là một cấp cứu rất thường gặp trong các khoacấp cứu tại tất cả các bệnh viện các cấp, các trung tâm y tế và các cơ sở y tế. Việc pháthiện và chẩn đoán được bụng ngoại khoa có ý nghĩa rất quan trọng và cấp thiết vì nó liênquan đến tiên lượng bệnh thậm chí mạng sống của bệnh nhân. Do đó các bác sĩ lâm sàngđặc biệt là các bác sĩ thực hành cấp cứu cần được trang bị kiến thức đầy đủ để phát hiệnvà xử trí kịp thời các cấp cứu bụng ngoại khoa.CÁC NGUYÊN NHÂN BỤNG NGOẠI KHOA THƯỜNG GẶPChấn thương: - Vỡ lách - Vỡ gan - Vỡ ruột non, đại tràng, dạ dày - Vết thương thấu bụng - Vết thương hậu môn, tầng sinh mônBệnh lý: - Viêm ruột thừa - Thủng dạ dày tá tràng - Tắc ruột, xoắn ruột - Viêm phúc mạc - Tắc mạch mạc treo - Xuất huyết nội do thai ngoài tử cung - U nang buồng trứng xoắn - Viêm túi mật hoại tử, sỏi kẹt cổ túi mậtCÁC NGUYÊN NHÂN GIẢ BỤNG NGOẠI KHOA THƯỜNG GẶP - Tim mạch: Nhồi máu cơ tim, viêm màng ngoài tim - Phổi: Viêm đáy phổi, nhồi máu phổi - Tiêu hóa: Viêm tụy cấp, viêm dạ dày cấp, viêm gan cấp - Niệu dục: Cầu bàng quang, viêm đài bể thận, viêm tai vòi, rụng trứng giữa kỳ kinh - Huyết học: Bệnh hồng cầu liềm (sickle cell crisis) - Cơ: Tụ máu cơ thẳng bụng (do chấn thương, do dùng thuốc kháng đông) - Nội tiết: Nhiễm keton acid, suy tuyến thượng thận cấp - …TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG Khi bệnh nhân vào viện, triệu chứng này hay triệu chứng kia nổi bật. Để dễ theodõi, chúng ta lần lượt xem xét:A. TRIỆU CHỨNG CƠ NĂNG1. Đau bụng Đau bụng là triệu chứng thường gặp nhất đưa bệnh nhân tới bệnh viện. Những thống kê với số liệu hàng ngàn bệnh nhân cho thấy tỉ lệ đau theo thứ tự từnhiều tới ít như sau: viêm ruột thừa, viêm túi mật, tắc ruột, các bệnh niệu khoa, thủng dạdày, viêm tụy cấp. Vì đau là triệu chứng của nhiều bệnh nên không thể căn cứ vào sự có mặt của đaumà chẩn đoán. Muốn chẩn đoán phải dựa vào tính chất của đau.1.1. Vị trí đau, là căn cứ đầu tiên – Đau không có vị trí nhất định, lúc đau chỗ này lúc đau chỗ khác, như đau trong tắc ruột. – Đau toàn thể bụng như trong viêm phúc mạc toàn thể, thủng dạ dày ... – Đau khu trú ở một điểm hay một vùng nhất định. Đau điểm McBurney trong viêm ruột thừa đến sớm. Đau ở dưới bờ sườn phải nghĩ đến các bệnh gan mật. Đau dưới vùng hố chậu một hay hai bên, hướng tới viêm phần phụ hay thai ngoài tử cung vỡ. – Nhưng cũng có khi nơi đau không tương ứng với nơi có thương tổn. Đau ở hố chậu trái trong vỡ lách hay vỡ gan, đau ở hố chậu phải trong thủng dạ dày. – Vị trí đau thay đổi. Nhiều viêm ruột thừa lúc đầu đau ở vùng thượng vị, sau nhiều giờ không đau ở thượng vị nữa mà đau ở hố chậu phải. Những bệnh nhân này thường bị chẩn đoán lầm là cơn đau của viêm loét dạ dày tá tràng.1.2. Mức độ đau Đau có rất nhiều mức độ. Thường được chia thành các mức độ sau: – Đau vừa phải: bệnh nhân nhăn nhó, khó chịu như trong viêm ruột thừa, viêm túi mật, sỏi ống mật chủ, viêm phần phụ… – Đau nhiều: bệnh nhân thường phải kêu la, rên rỉ như trong tắc ruột, tắc mật … – Đau dữ dội: đau như xé ruột, xé gan, như dao đâm trong thủng dạ dày, xoắn ruột…Mức độ đau có thể thay đổi theo thời gian, tăng lên hay giảm xuống một cách nhanhchóng hay chậm chạp.1.3. Kiểu đau – Đau từng cơn, ngoài cơn đau hoàn toàn bình thường, bệnh nhân biết cơn đau sắp chấm dứt rồi lại biết cơn đau sắp trở lại, như trong tắc ruột cơ học. – Đau bắt bệnh nhân kêu la, xoay vặn người, gập ưỡn bụng. Làm như vậy sẽ bớt đau. Gặp trong cơn đau của sỏi ống mật chủ, sỏi niệu quản … – Đau bắt bệnh nhân nằm im không dám thở sâu, nói to, ho mạnh, xoay trở người, đi lại. Mọi động tác phải nhẹ nhàng từ từ chậm chạp như đau trong viêm phúc mạc, áp xe gan, áp xe dưới hoành, áp xe ruột thừa …1.4. Cách bắt đầu đau – Bắt đầu đột ngột, thường được ví như tiếng sét giữa trời quang mây tạnh, thấy trong thủng dạ dày… – Lúc mới bắt đầu đau ít, về sau đau mỗi lúc một tăng, thấy trong viêm ruột thừa, viêm phần phụ, áp xe gan …1.5. Thời gian đến bệnh viện – Vừa mới đau, đau đã nhiều giờ, hay một vài ngày. Nếu đã hàng tuần thì lại thường do các bệnh mãn tính. – Trên cơ sở mãn tính bệnh có thể bị biến chứng. Loét dạ dày tá tràng là bệnh mãn tính, đau đã nhiều tháng, nhiều năm. Vài giờ trước khi tới bệnh viện ổ loét thủng gây đau dữ dội. Túi mật viêm mãn tính đau ít, có thể diễn biến cấp tính đau nhiều.1.6. Hướng lan – Đau chỉ khu trú tại một vùng. – Đau có thể lan tới vùng khác. Cơn đau của sỏi niệu quản lan ...