Bài giảng - CHƯƠNG 5: Định Giá Đầu-Ra (output)
Số trang: 22
Loại file: pdf
Dung lượng: 1.81 MB
Lượt xem: 7
Lượt tải: 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Đầu-ra (output) là các hàng hoá và dịch vụ do một dự án tạo ra. Đầu-ra (output) có thể là điện do một đập thuỷ điện tạo ra, các căn hộ trong một dự án nhà chung cư hay các lợi ích vui chơi giải trí mà một sân gôn của thành phố tạo ra. Trong khu vực tư nhân, hàng hoá dịch vụ được bán trên các thị trường mà mức giá được chi trả là thước đo chuẩn xác giá trị của chúng.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài giảng - CHƯƠNG 5: Định Giá Đầu-Ra (output) CHƯƠNG 5: Định Giá Đầu-Ra (output) SửDụng các Mức Giá Thị Trường-PHẦN1Đầu-ra (output) là các hàng hoá và dịch vụ do một dự án tạo ra.Đầu-ra (output) có thể là điện do một đập thuỷ điện tạo ra, cáccăn hộ trong một dự án nhà chung cư hay các lợi ích vui chơi giảitrí mà một sân gôn của thành phố tạo ra. Trong khu vực tư nhân,hàng hoá dịch vụ được bán trên các thị trường mà mức giá đượcchi trả là thước đo chuẩn xác giá trị của chúng. Nếu đầu-ra(output) của một dự án được bán trên các thị trường cho nhữngngười trả giá cao nhất thì mức giá thị trường có thể được dùngđể định giá cho các đầu-ra (output) này. Tuy nhiên, có một sốthách thức trong việc sử dụng giá thị trường để định giá cho đầu-ra (output) của dự án. Cần phải tính đến thuế, tác nhân ngoạisinh và những bóp méo thị trường chuẩn khác một cách chínhxác. Ngoài ra, đầu-ra (output) cũng cần phải được phân phối quacác thị trường mở mà bất kỳ người nào muốn bán hàng hoá đótại mức giá thị trường được phép làm vậy và trong điều kiện cânbằng, lượng cung bằng với lượng cầu. Nếu vì một lý do nào đóđầu-ra (output) được bán với mức giá không phản ánh giá trị thựctrên thị trường của đầu-ra (output) thì giá trị tiền mặt có thể khôngphải là thước đo tốt đối với lợi ích của dự án.Ví dụ: Phân phối Phi thị trường ở các Khu chung cưVí dụ như hãy hình dung một dự án xây nhà chung cư xây dựngmột số căn hộ giống với những căn hộ đang được cho thuê trongkhu vực tư song lại được bán với mức giá thấp hơn so với mứcgiá thị trường cho các hộ gia đình có thu nhập thấp đang có nhucầu mua nhà chung cư. Việc sử dụng những mức giá cho thuêthấp hơn mức giá thị trường này đối với mỗi đơn vị nhà ở chothuê có thể là không chính xác vì các đơn vị này tương đươngvới những đơn vị nhà ở do khu vực tư cung cấp. Giá trị củachúng cần phải được định giá ở mức tương đương với giá trị củacác căn hộ cho thuê tư nhân. Độ chênh lệch giữa mức giá chothuê cao ở khu vực tư và mức giá cho thuê thấp của căn hộ củadự án chỉ đơn giản là một khoản chuyển nhượng cho các giađình thuê căn hộ của dự án. Mặt khác, nếu các hộ dành đượcquyền thuê các căn hộ của dự án song hiện lại không sống trongnhững căn hộ tư tương tự, rõ ràng là họ sẽ không định giá cáccăn hộ ở mức giá tư đầy đủ. Thế nên việc dùng mức giá cho thuêở khu vực tư nhân để định giá các căn hộ của dự án có thể làkhông đúng. Trong bất kỳ trường hợp nào thì việc đơn thuần lấymức giá cho thuê của các căn hộ dự án làm thước đo cho giá trịcủa chúng cũng đều là sai lầm.Đối với một dự án tạo ra đầu-ra và cung cấp chúng cho thị trườngthì có ba tác động sau. Thứ nhất, giá thị trường của đầu-ra(output) có thể giảm đi do cung tăng. Thứ hai, các nhà sản xuấtđầu-ra (output) tư nhân khác có thể gánh chịu kết cục là phảigiảm lượng cung do mức giá giảm. Thứ ba, người tiêu dùng đầu-ra (output) đó có thể mua một lượng nhiều hơn nếu dự án gây ratác động giảm giá trên thị trường.Giảm sản xuất tư hay tăng tổng tiêu dùng đầu-ra (output) đều làmột phần trong lợi ích của dự án. Giảm sản xuất tư được coi làlợi ích nếu nhìn từ góc độ xã hội vì nó giải phóng cho nguồn lựcsản xuất đáng lẽ ra có thể được dùng cho các hoạt động sản xuấtkhác.[1] Tăng tiêu dùng tư được coi là một lợi ích là vì người tiêudùng đang có được nhiều hơn một thứ gì đó họ cần.Phương pháp định giá chuẩn xác đầu-ra (output) của dự áncó thể được tóm lược bằng hai quy tắc sau:· Mức tiêu dùng đầu-ra tăng cần được đo lường dựa trên mứcsẵn sàng chi trả của người tiêu dùng cho đầu-ra đó.[2]· Mức giảm trong sản xuất tư của một đầu-ra cần được đo lườngdựa theo chi phí cận biên mà nhà sản xuất phải bỏ ra cho việc cắtgiảm sản xuất.Hình 5-1 minh hoạ những quy tắc này, đường cung và đườngcầu ban đầu là S và D. Dự án tăng cung đầu-ra từ S lên S. Mứctăng trong tiêu dùng, Qt - Q0, được định giá dọc theo đường cầuhay giá trị cận biên. Mức cắt giảm của sản xuất tư, Q0 - Qp, đượcđịnh giá dọc theo đường cung và đường chi phí cận biên. Tổngtiêu dùng tăng và sản xuất giảm là tổng lượng đầu-ra (output) màdự án tạo ra. Chương này bàn đến việc áp dụng chuẩn xácnhững quy tắc này cho hàng loạt các tình huống khác nhau.Hình 5-1Các kích cỡ tương ứng của sản xuất tư giảm và tiêu dùng tăngsẽ phụ thuộc vào độ co dãn tương ứng của cung và cầu.Nếu cầu là co dãn tương đối và cung là không co dãn tương đốithì đầu-ra (output) tăng thêm do dự án tạo ra sẽ được dùng chotiêu dùng gia tăng. Ví dụ như một dự án làm tăng diện tích vănphòng công sở trong một khu vực sẽ khiến cho tổng diện tích vănphòng tăng lên một lượng đáng kể về ngắn hạn song lại làm giảmrất ít hay không hề khiến cho lượng diện tích văn phòng ở khuvực tư nhân.Mặt khác, nếu cầu là không co dãn tương đối và cung là co dãntương đối thì đầu-ra (output) của dự án sẽ khiến cho sản xuất tưcủa mặt hàng đó suy giảm. Trong ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài giảng - CHƯƠNG 5: Định Giá Đầu-Ra (output) CHƯƠNG 5: Định Giá Đầu-Ra (output) SửDụng các Mức Giá Thị Trường-PHẦN1Đầu-ra (output) là các hàng hoá và dịch vụ do một dự án tạo ra.Đầu-ra (output) có thể là điện do một đập thuỷ điện tạo ra, cáccăn hộ trong một dự án nhà chung cư hay các lợi ích vui chơi giảitrí mà một sân gôn của thành phố tạo ra. Trong khu vực tư nhân,hàng hoá dịch vụ được bán trên các thị trường mà mức giá đượcchi trả là thước đo chuẩn xác giá trị của chúng. Nếu đầu-ra(output) của một dự án được bán trên các thị trường cho nhữngngười trả giá cao nhất thì mức giá thị trường có thể được dùngđể định giá cho các đầu-ra (output) này. Tuy nhiên, có một sốthách thức trong việc sử dụng giá thị trường để định giá cho đầu-ra (output) của dự án. Cần phải tính đến thuế, tác nhân ngoạisinh và những bóp méo thị trường chuẩn khác một cách chínhxác. Ngoài ra, đầu-ra (output) cũng cần phải được phân phối quacác thị trường mở mà bất kỳ người nào muốn bán hàng hoá đótại mức giá thị trường được phép làm vậy và trong điều kiện cânbằng, lượng cung bằng với lượng cầu. Nếu vì một lý do nào đóđầu-ra (output) được bán với mức giá không phản ánh giá trị thựctrên thị trường của đầu-ra (output) thì giá trị tiền mặt có thể khôngphải là thước đo tốt đối với lợi ích của dự án.Ví dụ: Phân phối Phi thị trường ở các Khu chung cưVí dụ như hãy hình dung một dự án xây nhà chung cư xây dựngmột số căn hộ giống với những căn hộ đang được cho thuê trongkhu vực tư song lại được bán với mức giá thấp hơn so với mứcgiá thị trường cho các hộ gia đình có thu nhập thấp đang có nhucầu mua nhà chung cư. Việc sử dụng những mức giá cho thuêthấp hơn mức giá thị trường này đối với mỗi đơn vị nhà ở chothuê có thể là không chính xác vì các đơn vị này tương đươngvới những đơn vị nhà ở do khu vực tư cung cấp. Giá trị củachúng cần phải được định giá ở mức tương đương với giá trị củacác căn hộ cho thuê tư nhân. Độ chênh lệch giữa mức giá chothuê cao ở khu vực tư và mức giá cho thuê thấp của căn hộ củadự án chỉ đơn giản là một khoản chuyển nhượng cho các giađình thuê căn hộ của dự án. Mặt khác, nếu các hộ dành đượcquyền thuê các căn hộ của dự án song hiện lại không sống trongnhững căn hộ tư tương tự, rõ ràng là họ sẽ không định giá cáccăn hộ ở mức giá tư đầy đủ. Thế nên việc dùng mức giá cho thuêở khu vực tư nhân để định giá các căn hộ của dự án có thể làkhông đúng. Trong bất kỳ trường hợp nào thì việc đơn thuần lấymức giá cho thuê của các căn hộ dự án làm thước đo cho giá trịcủa chúng cũng đều là sai lầm.Đối với một dự án tạo ra đầu-ra và cung cấp chúng cho thị trườngthì có ba tác động sau. Thứ nhất, giá thị trường của đầu-ra(output) có thể giảm đi do cung tăng. Thứ hai, các nhà sản xuấtđầu-ra (output) tư nhân khác có thể gánh chịu kết cục là phảigiảm lượng cung do mức giá giảm. Thứ ba, người tiêu dùng đầu-ra (output) đó có thể mua một lượng nhiều hơn nếu dự án gây ratác động giảm giá trên thị trường.Giảm sản xuất tư hay tăng tổng tiêu dùng đầu-ra (output) đều làmột phần trong lợi ích của dự án. Giảm sản xuất tư được coi làlợi ích nếu nhìn từ góc độ xã hội vì nó giải phóng cho nguồn lựcsản xuất đáng lẽ ra có thể được dùng cho các hoạt động sản xuấtkhác.[1] Tăng tiêu dùng tư được coi là một lợi ích là vì người tiêudùng đang có được nhiều hơn một thứ gì đó họ cần.Phương pháp định giá chuẩn xác đầu-ra (output) của dự áncó thể được tóm lược bằng hai quy tắc sau:· Mức tiêu dùng đầu-ra tăng cần được đo lường dựa trên mứcsẵn sàng chi trả của người tiêu dùng cho đầu-ra đó.[2]· Mức giảm trong sản xuất tư của một đầu-ra cần được đo lườngdựa theo chi phí cận biên mà nhà sản xuất phải bỏ ra cho việc cắtgiảm sản xuất.Hình 5-1 minh hoạ những quy tắc này, đường cung và đườngcầu ban đầu là S và D. Dự án tăng cung đầu-ra từ S lên S. Mứctăng trong tiêu dùng, Qt - Q0, được định giá dọc theo đường cầuhay giá trị cận biên. Mức cắt giảm của sản xuất tư, Q0 - Qp, đượcđịnh giá dọc theo đường cung và đường chi phí cận biên. Tổngtiêu dùng tăng và sản xuất giảm là tổng lượng đầu-ra (output) màdự án tạo ra. Chương này bàn đến việc áp dụng chuẩn xácnhững quy tắc này cho hàng loạt các tình huống khác nhau.Hình 5-1Các kích cỡ tương ứng của sản xuất tư giảm và tiêu dùng tăngsẽ phụ thuộc vào độ co dãn tương ứng của cung và cầu.Nếu cầu là co dãn tương đối và cung là không co dãn tương đốithì đầu-ra (output) tăng thêm do dự án tạo ra sẽ được dùng chotiêu dùng gia tăng. Ví dụ như một dự án làm tăng diện tích vănphòng công sở trong một khu vực sẽ khiến cho tổng diện tích vănphòng tăng lên một lượng đáng kể về ngắn hạn song lại làm giảmrất ít hay không hề khiến cho lượng diện tích văn phòng ở khuvực tư nhân.Mặt khác, nếu cầu là không co dãn tương đối và cung là co dãntương đối thì đầu-ra (output) của dự án sẽ khiến cho sản xuất tưcủa mặt hàng đó suy giảm. Trong ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
đề cương môn kinh tế học bài giảng kinh tế học kinh tế vĩ mô kinh tế vi mô khái niệm kinh tế họcGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Kinh tế vi mô - TS. Lê Bảo Lâm
144 trang 717 21 0 -
Giáo trình Kinh tế vi mô - PGS.TS Lê Thế Giới (chủ biên)
238 trang 571 0 0 -
Phương pháp nghiên cứu nguyên lý kinh tế vi mô (Principles of Microeconomics): Phần 2
292 trang 538 0 0 -
Đề cương môn Kinh tế học đại cương - Trường ĐH Mở TP. Hồ Chí Minh
6 trang 325 0 0 -
38 trang 234 0 0
-
Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - PGS.TS. Nguyễn Văn Dần (chủ biên) (HV Tài chính)
488 trang 233 1 0 -
Bài giảng Kinh tế vi mô - Trường CĐ Cộng đồng Lào Cai
92 trang 222 0 0 -
Bài giảng Đánh giá kinh tế y tế: Phần 2 - Nguyễn Quỳnh Anh
42 trang 204 0 0 -
Bài giảng môn Nguyên lý kinh tế vĩ mô: Chương 2 - Lưu Thị Phượng
51 trang 178 0 0 -
229 trang 177 0 0