Thông tin tài liệu:
Bài giảng Dược học của thuốc giảm đau và điều trị đau trong khoa Cấp cứu được biên soạn nhằm trang bị cho các bạn những kiến thức về dịch tễ học của đau; dược học của thuốc giảm đau (NSAIDS, Paracetamol, Paracetamol, thuốc dạng thuốc phiện); điều trị giảm đau trong khoa Cấp cứu.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài giảng Dược học của thuốc giảm đau và điều trị đau trong khoa Cấp cứuDược học của thuốc giảm đau và điều trị đautrong Khoa cấp cứuProf. Peter Cameron, MBBS, MD, FACEPPresident, IFEMAcademic Director of EM & TraumaAlfred HospitalAustralia Mục tiêu bài giảng• Dịch tể học của đau• Dược học của thuốc giảm đau • NSAIDS • Paracetamol • Aspirin • Thuốc dạng thuốc phiện• Điều trị giảm đau trong khoa Cấp cứu“Chúngtatấtcảrồisẽchết.Nhưngtôisẽcảm thấyrấtvinhhạnhnếutôicóthểcứugiúpmột ngườikhỏinhữngthángngàyđauđớnvậtvã. Đauđớncònhànhhạconngườinhiềuhơnbản thâncáichết.” » Dr.AlbertSchweitzerNguyên nhân bệnh nhân đến phòngcấp cứu• Chảy máu• Đau• Cảm thấy bất thường• Hoặc bất kỳ hoặc tất cả các vấn đề trên…Dịch tễ học của đau• Đau là trải nghiệm thường gặp nhất của loài người và là lý do phổ biến nhất khiến người bệnh tìm kiếm chăm sóc y tế, đến khoa Cấp cứu• Đau là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tàn tật bán phần hoặc toàn phần ở Hoa Kỳ và tốn kém chi phí kinh tế rất nhiều cho nên y tế cũng như giảm thu nhập cho người bệnh• Đau gây hậu quả to lớn về mặt sinh lý, tâm lý, xã hội và nghề nghiệp cho người bệnh, gia đình, bạn bề và nhân viên y tế• Gần nửa số bệnh nhân đau mãn tính muốn tự tử do đauĐau là gì?“mộtcảmgiáckhôngthoảimáivàtrạngtháixúccảmđi kèmvớitổnthươngtổchứcthựcthểhoặcnguycơ hoặccả2” Hiệphộinghiêncứuđauquốctế(IASP) Các dạng đau—cấp tính hoặc mãn tínhĐau cấp tính• 1 sự thúc đẩy hành vi có liên quan đến lợi ích sống còn.• Có thể dẫn đến hành vi tìm kiếm chăm sóc y tế, tránh bị tổn thương thêm, dấu hiệu nhận biết của rối loạn nội sinh, hoặc kích hoạt hê thống thần kinh tự động để duy trì hàng định nội môi.• Thông thường có nguyên nhân xác định và mất đi khi kích thích mất đi.Các dạng đau—cấp tính hoặc mãn tínhĐau mãn tính• Kéo dài sau khi nguồn kích thích mất đi thường không có nguyên nhân bệnh lý rõ ràng.• Không khư trú rõ ràng, khó định lượng, lúc có lúc không và khó điều trị hơn đau cấp tính.Bệnh lý của đau mãn tínhGiả thuyết hiện nay tập trung vào rối loạn chức năng của hệ thần kinh • là hậu quả của sự liên quan của hệ thần kinh với một quá trình bệnh học (ví dụ, ung thư xâm lấn tủy sống) • do thay đổi sinh hóa của neuron trong tủy sống do kích thích đau kéo dài.Một thương tổn tự hạn chế có thể gây ra tình trạng đau mãn tính, đôi khi là hậu quả của đau cấp tính không được điều trị triệt để.Điều trị giảm đau là quyền được chămsóc y tế• Điều trị đau là vấn đề quan trọng trong chăm sóc y tế • Hướng dẫn cụ thể trong vấn đề đánh giá và điều trị đau. • Các chuẩn này khẳng định quyền được điều trị đau của bệnh nhân..• Thầy thuốc và nhân viên y tế cần đánh giá và điều trị đau có tất cả bệnh nhân và đánh giá điều trị 1 cách thường quy trong quá trình điều trị.• Mặc dù các vấn đề điều trị đau là hiển nhiên, nghiên cứu cho thấy là vấn đề tồn tại lớn nhất trong công tác điều trị đau là nhân viên y tế bỏ sót không xác định được vấn đề đau của người bệnh.• Chuẩn quốc tế cho thấy có sự thiếu hiểu biết rất lớn của bệnh nhân và thầy thuốc trong vấn đề kiểm soát đau. Điều này cho thấy cần phải có giáo dục phổ biến kiến thức Định nghĩa và Đánh giáLời khai của bệnh nhân là biện pháp chủ yếu để đánh giá đau trong phòng cấp cứu• Khó khăn về mặt thời gian• Các tình trạng bệnh lý khác kèm theo• Giảm tri giác• Bệnh nhân và bác sĩ không có mối quan hệ từ trướcThông thường, mức độ đau được đánh giá dùng thang điểm từ 0 đến 10Đánh giá đau qua quan sát đơn thuần, như thang điểm đánh giá nét mặt, rất hữu dụng trong khám trẻ em mà ít có khả năng diễn đạt bằng lời.Mô tả triệu chứng cũng là 1 biện pháp đánh giá thay đổi: nhẹ, hơi khó chịu, khó chịu, đau khủng khiếp, đau như dao đâmĐịnh nghĩa và Đánh giáMặc dầu không cấp thiết cho bệnh nhân có đau cấp tính trong phòng cấp cứu, các câu hỏi về chất lượng cuộc sống của bệnh nhân có thể có tính hữu dụng.Các đặc điểm của bệnh nhân như tuổi, giới, chủng tộc cũng ảnh hưởng đến cảm nhận đau và lời kể của bệnh nhân. • Một số nhóm bệnh nhân có thể cho rằng họ không nên nói với nhân viên y tế về tình trạng đau của họ • người già thông thường ít phàn nàn về tình trạng đau khi làm các thủ thuật ví dụ như đặt xông • các trường hợp ghi chép về đau mà không phù hợp với lời khai của bệnh nhân chúng ta cần phải đánh giá kỹ hơn, tuy nhiên phải lưu ý kinh nghiệm cũng như đặc điểm văn hóa của bệnh nhân.Nhịp tim, huyết áp, hoặc vẻ mặt của bệnh nhân không phù hợp với biểu hiện đau.Cảm nhận đauRất nhiều loại kích thích có thể làm sợi thần kinh cảm nhận đau phát tín hiệu:• Cơ học• Nhiệt độ• Hóa họcCác chất dẫn truyền trung gian có tác ...