Bài giảng Phát triển dịch vụ Logistics ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế - GS.TS. Đoàn Thị Hồng Vân
Số trang: 20
Loại file: pdf
Dung lượng: 201.77 KB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nội dung bài giảng Phát triển dịch vụ Logistics ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế trình bày, Logistics là gì ? Thực trạng phát triển dịch vụ Logistics tại Việt Nam nêu giải pháp phát triển ngành dịch vụ Logistics Việt Nam trong thời gian tới.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài giảng Phát triển dịch vụ Logistics ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế - GS.TS. Đoàn Thị Hồng Vân PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ LOGISTICS Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ GS.TS. Đoàn Thị Hồng Vân Trường Đại học Kinh tế tp. Hồ Chí Minh NỘI DUNG TRÌNH BÀY: • Logistics là gì ? • Thực trạng phát triển dịch vụ Logistics tại Việt Nam. • Giải pháp phát triển ngành dịch vụ Logistics Việt Nam. Logistics là gì ? “Logistics là quá trình tối ưu hoá về địa điểm và thời điểm, tối ưu hoá việc lưu chuyển và dự trữ nguồn tài nguyên từ đầu vào nguyên thủy cho đến tay người tiêu dùng cuối cùng, nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng với chi phí thích hợp, thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế”. Logistics là gì ? Logistics là quá trình tối ưu hoá mọi công việc, mọi thao tác từ khâu cung ứng, sản xuất, phân phối và tiêu dùng sản phẩm. Logistics được áp dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội, như: Quân sự, kinh tế, xã hội, công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, du lịch,… Logistics là gì ? Có thể nghiên cứu Logistics trên hai giác độ: vi mô và vĩ mô. Ở tầm vi mô, Logistics là việc tối ưu hóa mọi thao tác, hoạt động trong quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Ở tầm vĩ mô, có thể coi Logistics là một ngành dịch vụ giúp tối ưu hoá quá trình phân phối, vận chuyển, dự trữ các nguồn lực, giúp các quốc gia và nhân loại phát triển bền vững và hiệu quả. Trong chuỗi vô số những hoạt động kinh tế của quá trình Logistics có các dịch vụ Logistics, bao gồm các hoạt động vận chuyển, tồn trữ, cung ứng nguyên vật liệu, bao bì, đóng gói, kẻ ký mã hiệu, mã vạch, làm thủ tục thông quan, gom hàng (consolidation), tách hàng (deconsolidation), quản trị hàng tồn kho, quản trị nhà cung cấp (vender management), dự báo nhu cầu, quản lý đơn hàng, dịch vụ khách hàng,… Theo ước tính của Viện Logistics châu Á - Thái Bình Dương (TLIAP), trị giá của dịch vụ Logistics chiếm 10-15% tổng trị giá hàng hóa toàn cầu, tương đương 2.000 tỷ USD/năm. (N.Viswanadham and R.S.Gaonkar (2001), E. Logistics: Trens và Opportunities (TLIAP), Singapore). Như vậy, nói đến Logistics là phải nói đến tối ưu hoá, nói đến hiệu quả. (Hiệu quả ở đây là hiệu quả của toàn chuỗi chứ không phải chỉ là hiệu quả cục bộ). Logistics có vai trò rất to lớn giúp tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, ngành hàng cũng như các quốc gia. Dịch vụ Logistics chỉ phát triển thành công một khi mang lại hiệu quả cao hơn cho người sử dụng và cho toàn xã hội. Sẽ không đơn giản chỉ cần đổi chữ giao nhận, kho vận thành Logistics mà có thể có được ngành Logistics. Thực trạng phát triển dịch vụ Logistics tại Việt Nam Mặc dù Logistics đã và đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới, nhưng ở Việt Nam vẫn còn khá mới mẻ, phần lớn các dịch vụ Logistics được thực hiện ở các công ty giao nhận. Chúng tôi cho rằng: Dịch vụ Logistics của Việt Nam đang ở vào thời kỳ khởi phát và sẽ không thể tự thân phát triển vượt bậc, muốn sát cánh “bằng chị, bằng em” trong khu vực và trên thế giới thì phải có nhận thức đúng đắn về Logistics, phải có cơ sở pháp lý vững vàng, đồng bộ, phải được đầu tư bài bản, căn cơ, mà trước hết phải đầu tư để đào tạo nguồn nhân lực cho dịch vụ Logistics. Cơ sở pháp lý của dịch vụ Logistics ở Việt Nam Theo quy định tại điều 233, Luật Thương mại 2005 của Việt Nam, dịch vụ Logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá theo thỏa thuận của khách hàng để hưởng thù lao. Dịch vụ Logistics được phiên âm theo tiếng Việt là dịch vụ Lô-gi-stic. Cơ sở pháp lý của dịch vụ Logistics ở Việt Nam Để chi tiết hóa Luật Thương mại, ngày 5/9/2007 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 140/2007/NĐ-CP v/v Quy định chi tiết Luật thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ Lô-gi-stic và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ Lô-gi-stic. Cơ sở pháp lý của dịch vụ Logistics ở Việt Nam Cho đến nay chúng ta thiếu một khung pháp lý cho hoạt động Logistics, đó chính là mảnh đất màu mỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho những thương nhân (trong và ngoài nước) không có đủ năng lực, nhưng muốn mượn danh Logistics để kinh doanh kiếm lời, hoạt động. Và điều nguy hiểm hơn là chính các công ty “Logistics mạo danh” này sẽ làm xấu hình ảnh của Logistics Việt Nam, sẽ cản trở bước tiến của ngành dịch vụ Logistics nước nhà trên bước đường hội nhập. Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ Logistics của Việt Nam. Số lượng thì có sự phát triển vượt bậc (từ vài DN lên đến hơn 800 DN), nhưng nếu xét về chất lượng thì các doanh nghiệp Logistics Việt Nam còn rất nhỏ yếu. Đa số các công ty dịch vụ Logistics Việt Nam mới chỉ thực hiện việc mua bán cước, đại lý khai quan và dịch vụ vận tải, một số có thực hiện dịch vụ kho bãi nhưng không nhiều; Trong vận tải đa phương thức vẫn chưa thể kết hợp một cách hiệu quả các phương tiện, chưa tổ chức tốt các điểm chuyển tải; Trình độ cơ giới hoá trong khâu bốc dỡ còn yếu kém; Trình độ lao động thấp, chưa đáp ứng yêu cầu; Cơ sở hạ tầng thiếu và yếu; Công tác lưu kho còn quá lạc hậu so với thế giới; Công nghệ thông tin còn có khoảng cách quá xa so với yêu cầu phát triển Logistics toàn cầu. Các doanh nghiệp Việt Nam đã nhỏ, yếu, cần liên kết tập trung sức mạnh để tăng sức cạnh tranh, nhưng thời gian qua sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong ngành rất yếu. Mức độ cung cấp dịch vụ vận tải của các doanh nghiệp Việt Nam Mức độ Cấp 1 Cấp 2 Cấp 3 Cấp 4 hoạt động Dịch vụ Đại lý Gom MTO LP cung truyền hàng, ứng thống cấp ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài giảng Phát triển dịch vụ Logistics ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế - GS.TS. Đoàn Thị Hồng Vân PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ LOGISTICS Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ GS.TS. Đoàn Thị Hồng Vân Trường Đại học Kinh tế tp. Hồ Chí Minh NỘI DUNG TRÌNH BÀY: • Logistics là gì ? • Thực trạng phát triển dịch vụ Logistics tại Việt Nam. • Giải pháp phát triển ngành dịch vụ Logistics Việt Nam. Logistics là gì ? “Logistics là quá trình tối ưu hoá về địa điểm và thời điểm, tối ưu hoá việc lưu chuyển và dự trữ nguồn tài nguyên từ đầu vào nguyên thủy cho đến tay người tiêu dùng cuối cùng, nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng với chi phí thích hợp, thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế”. Logistics là gì ? Logistics là quá trình tối ưu hoá mọi công việc, mọi thao tác từ khâu cung ứng, sản xuất, phân phối và tiêu dùng sản phẩm. Logistics được áp dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội, như: Quân sự, kinh tế, xã hội, công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, du lịch,… Logistics là gì ? Có thể nghiên cứu Logistics trên hai giác độ: vi mô và vĩ mô. Ở tầm vi mô, Logistics là việc tối ưu hóa mọi thao tác, hoạt động trong quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Ở tầm vĩ mô, có thể coi Logistics là một ngành dịch vụ giúp tối ưu hoá quá trình phân phối, vận chuyển, dự trữ các nguồn lực, giúp các quốc gia và nhân loại phát triển bền vững và hiệu quả. Trong chuỗi vô số những hoạt động kinh tế của quá trình Logistics có các dịch vụ Logistics, bao gồm các hoạt động vận chuyển, tồn trữ, cung ứng nguyên vật liệu, bao bì, đóng gói, kẻ ký mã hiệu, mã vạch, làm thủ tục thông quan, gom hàng (consolidation), tách hàng (deconsolidation), quản trị hàng tồn kho, quản trị nhà cung cấp (vender management), dự báo nhu cầu, quản lý đơn hàng, dịch vụ khách hàng,… Theo ước tính của Viện Logistics châu Á - Thái Bình Dương (TLIAP), trị giá của dịch vụ Logistics chiếm 10-15% tổng trị giá hàng hóa toàn cầu, tương đương 2.000 tỷ USD/năm. (N.Viswanadham and R.S.Gaonkar (2001), E. Logistics: Trens và Opportunities (TLIAP), Singapore). Như vậy, nói đến Logistics là phải nói đến tối ưu hoá, nói đến hiệu quả. (Hiệu quả ở đây là hiệu quả của toàn chuỗi chứ không phải chỉ là hiệu quả cục bộ). Logistics có vai trò rất to lớn giúp tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, ngành hàng cũng như các quốc gia. Dịch vụ Logistics chỉ phát triển thành công một khi mang lại hiệu quả cao hơn cho người sử dụng và cho toàn xã hội. Sẽ không đơn giản chỉ cần đổi chữ giao nhận, kho vận thành Logistics mà có thể có được ngành Logistics. Thực trạng phát triển dịch vụ Logistics tại Việt Nam Mặc dù Logistics đã và đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới, nhưng ở Việt Nam vẫn còn khá mới mẻ, phần lớn các dịch vụ Logistics được thực hiện ở các công ty giao nhận. Chúng tôi cho rằng: Dịch vụ Logistics của Việt Nam đang ở vào thời kỳ khởi phát và sẽ không thể tự thân phát triển vượt bậc, muốn sát cánh “bằng chị, bằng em” trong khu vực và trên thế giới thì phải có nhận thức đúng đắn về Logistics, phải có cơ sở pháp lý vững vàng, đồng bộ, phải được đầu tư bài bản, căn cơ, mà trước hết phải đầu tư để đào tạo nguồn nhân lực cho dịch vụ Logistics. Cơ sở pháp lý của dịch vụ Logistics ở Việt Nam Theo quy định tại điều 233, Luật Thương mại 2005 của Việt Nam, dịch vụ Logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá theo thỏa thuận của khách hàng để hưởng thù lao. Dịch vụ Logistics được phiên âm theo tiếng Việt là dịch vụ Lô-gi-stic. Cơ sở pháp lý của dịch vụ Logistics ở Việt Nam Để chi tiết hóa Luật Thương mại, ngày 5/9/2007 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 140/2007/NĐ-CP v/v Quy định chi tiết Luật thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ Lô-gi-stic và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ Lô-gi-stic. Cơ sở pháp lý của dịch vụ Logistics ở Việt Nam Cho đến nay chúng ta thiếu một khung pháp lý cho hoạt động Logistics, đó chính là mảnh đất màu mỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho những thương nhân (trong và ngoài nước) không có đủ năng lực, nhưng muốn mượn danh Logistics để kinh doanh kiếm lời, hoạt động. Và điều nguy hiểm hơn là chính các công ty “Logistics mạo danh” này sẽ làm xấu hình ảnh của Logistics Việt Nam, sẽ cản trở bước tiến của ngành dịch vụ Logistics nước nhà trên bước đường hội nhập. Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ Logistics của Việt Nam. Số lượng thì có sự phát triển vượt bậc (từ vài DN lên đến hơn 800 DN), nhưng nếu xét về chất lượng thì các doanh nghiệp Logistics Việt Nam còn rất nhỏ yếu. Đa số các công ty dịch vụ Logistics Việt Nam mới chỉ thực hiện việc mua bán cước, đại lý khai quan và dịch vụ vận tải, một số có thực hiện dịch vụ kho bãi nhưng không nhiều; Trong vận tải đa phương thức vẫn chưa thể kết hợp một cách hiệu quả các phương tiện, chưa tổ chức tốt các điểm chuyển tải; Trình độ cơ giới hoá trong khâu bốc dỡ còn yếu kém; Trình độ lao động thấp, chưa đáp ứng yêu cầu; Cơ sở hạ tầng thiếu và yếu; Công tác lưu kho còn quá lạc hậu so với thế giới; Công nghệ thông tin còn có khoảng cách quá xa so với yêu cầu phát triển Logistics toàn cầu. Các doanh nghiệp Việt Nam đã nhỏ, yếu, cần liên kết tập trung sức mạnh để tăng sức cạnh tranh, nhưng thời gian qua sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong ngành rất yếu. Mức độ cung cấp dịch vụ vận tải của các doanh nghiệp Việt Nam Mức độ Cấp 1 Cấp 2 Cấp 3 Cấp 4 hoạt động Dịch vụ Đại lý Gom MTO LP cung truyền hàng, ứng thống cấp ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Phát triển dịch vụ Logistics Phát triển dịch vụ Logistics Việt Nam Dịch vụ Logistics Việt Nam Bài giảng quản trị Logistics Tài liệu Logistics Quản trị chuỗi cung ứngGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình QUẢN TRỊ CHUỔI CUNG ỨNG
179 trang 230 0 0 -
Bài giảng Quản trị Logistics: Chương 4 - TS. Hà Minh Hiếu
46 trang 180 0 0 -
Tài liệu học tập Quản trị chuỗi cung ứng: Phần 2
99 trang 150 0 0 -
Tiểu luận: Lý thuyết chuỗi cung ứng (áp dụng tại công ty Vinamilk)
18 trang 138 0 0 -
Quản trị chuỗi cung ứng: Phần 1 - PGS.TS. Nguyễn Phúc Nguyên và TS. Lê Thị Minh Hằng
126 trang 120 0 0 -
Giáo trình Quản trị chuỗi cung ứng: Phần 2 - Trường ĐH Thủ Dầu Một
99 trang 71 0 0 -
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện quản trị chuỗi cung ứng tại Công ty Cổ phần Giấy Vạn Điểm
97 trang 65 0 0 -
18 trang 63 0 0
-
93 trang 61 0 0
-
Tiểu luận : Chuỗi cung ứng của Samsung
18 trang 57 0 0