Bài giảng Suy thoái tài nguyên nước
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 155.00 KB
Lượt xem: 16
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nước là yếu tố chủ đạo của hệ sinh thái, là nhu cầu cơ bản của mọi sự sống trên trái đất và cần thiết cho mọi hoạt động kinh tế - xã hội của loài người. Nước là tài nguyên tái tạo được, sau một thời gian nhất định được dùng lại.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài giảng Suy thoái tài nguyên nước Suy thoái tài nguyên nướcNước là yếu tố chủ đạo của hệ sinh thái,là nhu cầu cơ bản của mọi sự sống trêntrái đất và cần thiết cho mọi hoạt độngkinh tế - xã hội của loài người. Nước làtài nguyên tái tạo được, sau một thời giannhất định được dùng lại. Tài nguyênnước bao gồm nước trong khí quyển,nước mặt, nước dưới đất (nước ngầm), nước biển và đại dương.Hàng năm lượng nước mưa (nguồncung cấp nước ngọt chủ yếu)chiếm khoảng 105.000km3, trong đó2/3 lượng nước quay lại khí quyển dobốc hơi bề mặt và sự thoát hơi nước của thực vật, 1/3 lượng nước còn lại là dòng chảy bề mặt và nước ngầm đổtheo sông suối chảy ra biển. Nếu35.000km3 nước mỗi năm là nguồn cungcấp nước tiềm tàng cho con người, thìvới dân số hiện tại, bình quân có chừng18 lít nước ngày, quá thừa cho nhu cầu sinh lý (2 lít/người/ngày). Song thực tế không phải như vậy, trung bìnhmỗi người cần đến 250lít nước/ ngày. Ởcác nước công nghiệp cần gấp 6 lần giátrị trên, còn ở các nước nông nghiệp, nhấtlà những nơi khô nóng thì lượng nước sửdụng còn lớn hơn.Người ta tính rằng, trên phạm vi toàn cầunước dùng cho sinh hoạt chiếm 6% tổngsố, cho công nghiệp 21%, số còn lạidành cho nông nghiệp. Ngoài lượngnước bề mặt, việc khai thác nước ngầmđã trở thành cứu cánh cho sự thiếu hụtnước, Hiên tại, lượng nước ngầm đượckhai thác trên toàn cầu đã vượt 35 lần sovới 30 năm trước. Nạn thiếu hụt nướccòn xảy ra do suy thoái rừng và mấtrừng, do nước (nước mặt và nước ngầm)và đất bị ô nhiễm.Do khai thác quá mức nguồn nước, donước bị ô nhiễm, loài người đang đứngtrước cảnh thiếu nước, nhất là nước sạch.Do vậy đã có nhiều hội nghị, diễn đànđược tổ chức ở các quy mô khác nhaunhằm hướng tới việc chống suy thoái và bảo vệ nguồn nước. Chẳng hạn như: Diễn đàn nước thế giới lần thứ haivà Hội nghị Bộ trưởng tháng 3/2000 tổchức tại Hà Lan đã thông qua tầm nhìnvà khung hành động về nước thế kỷ XXI.Từ diễn đàn này, căn cứ vào kết quả quốctế mà các quốc gia sẽ xây dựng cho mình “Chương trình hành động quốc gia về an ninh nước thế kỷ XXI”. TạiViệt Nam hội thảo quốc gia về nước thếkỷ XXI, tầm nhìn và hành động tới 2005tại Hà Nội đã thông qua tầm nhìn vềnước là: Sử dụng tổng hợp, bảo vệ tàinguyên nước vững bền và phòng chốngcó hiệu quả các tác hại về nước.Khái niệm an ninh về nước của thế giớiđược hiểu là:- Nước ngọt và hệ sinh thái được cảithiện- Ủng hộ sự phát triển bền vững và ổnđịnh chính trị- Ai cũng có nước sạch để dùng với giácả hợp lý, đảm bảo sức khoẻ và năng lựcsản xuất- Con người được bảo vệ khỏi các nguyhiểm do nước gây raỞ Việt Nam, tài nguyên nước rất phongphú và dồi dào, đặc biệt tiềm năng nước ngọt còn rất lớn, lượng nước trung 3 bình đầu người đạt 17.000km /năm,cao gần gấp 3 lần hệ số đảm bảo nướctrung bình trên thế giới. Cùng với nướcmặt, trữ lượng nước ngầm khá cao, theoE. K. Alan (1998) thì tổng số trữ lượng động tự nhiên nước dưới đất toàn lãnh thổ chưa kể phần hải đảo là1513,45 m3/s nhưng phân bố không đềutrong các vùng địa chất thủy văn. Hiệnnay, nhịp điệu khai thác nước ngầmkhoảng 10 triệu m3/ ngày. Nhìn chung,chất lượng nước bề mặt và nước ngầmcòn tốt, thỏa mản được các nhu cầu kinhtế xã hội, hệ thông sông ngòi Việt Namcó khả năng cung cấp ổn định cho cácngành một lượng nước khoảng 100 – 150km3/năm. Nạn ô nhiễm nước do hoạtđộng con người còn mang tính chất cụcbộ, chỉ xuất hiện ở một vài địa phương.Khó khăn hiện nay trên con đường pháttriển là phần lớn người dân chưa đượcdùng nước sạch và còn phải đối mặt vớinạn lụt lội và hạn hán xảy ra hàng năm.Theo Trần Hiếu Nhuệ (2000), ở nước tahiện nay có khoảng 621 đô thị lớn nhỏ,trong đó có 78 đô thị có số dân từ15.000 người trở lên, chiếm tổng sốkhoảng 12 triệu người hay 80% tổng sốdân đô thị. Số đô thị còn lại thuộc đô thịnhỏ. Hiện nay, chỉ gần 1/2 dân số đô thịđược cấp nước, tiêu chuẩn cấp nước mớiđạt 50 – 60 lít/người/ngày, tổng lượngnước cấp cho các đô thị đạt công suất 2,6triệu m3/ngày, trong đó 2/3 từ nguồnnước mặt và 1/3 từ nước dưới đất. Riêngở nông thôn mới đảm bảo cấp được“nước sạch” cho 32% dân số ở nôngthôn. Trong đó sử dụng nước giếngkhoan, giếng đào, nước từ sông ngòikhông qua xử lý khoảng 28%, nước mưa10% còn lại là các nguồn khác.Hương Thảo ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài giảng Suy thoái tài nguyên nước Suy thoái tài nguyên nướcNước là yếu tố chủ đạo của hệ sinh thái,là nhu cầu cơ bản của mọi sự sống trêntrái đất và cần thiết cho mọi hoạt độngkinh tế - xã hội của loài người. Nước làtài nguyên tái tạo được, sau một thời giannhất định được dùng lại. Tài nguyênnước bao gồm nước trong khí quyển,nước mặt, nước dưới đất (nước ngầm), nước biển và đại dương.Hàng năm lượng nước mưa (nguồncung cấp nước ngọt chủ yếu)chiếm khoảng 105.000km3, trong đó2/3 lượng nước quay lại khí quyển dobốc hơi bề mặt và sự thoát hơi nước của thực vật, 1/3 lượng nước còn lại là dòng chảy bề mặt và nước ngầm đổtheo sông suối chảy ra biển. Nếu35.000km3 nước mỗi năm là nguồn cungcấp nước tiềm tàng cho con người, thìvới dân số hiện tại, bình quân có chừng18 lít nước ngày, quá thừa cho nhu cầu sinh lý (2 lít/người/ngày). Song thực tế không phải như vậy, trung bìnhmỗi người cần đến 250lít nước/ ngày. Ởcác nước công nghiệp cần gấp 6 lần giátrị trên, còn ở các nước nông nghiệp, nhấtlà những nơi khô nóng thì lượng nước sửdụng còn lớn hơn.Người ta tính rằng, trên phạm vi toàn cầunước dùng cho sinh hoạt chiếm 6% tổngsố, cho công nghiệp 21%, số còn lạidành cho nông nghiệp. Ngoài lượngnước bề mặt, việc khai thác nước ngầmđã trở thành cứu cánh cho sự thiếu hụtnước, Hiên tại, lượng nước ngầm đượckhai thác trên toàn cầu đã vượt 35 lần sovới 30 năm trước. Nạn thiếu hụt nướccòn xảy ra do suy thoái rừng và mấtrừng, do nước (nước mặt và nước ngầm)và đất bị ô nhiễm.Do khai thác quá mức nguồn nước, donước bị ô nhiễm, loài người đang đứngtrước cảnh thiếu nước, nhất là nước sạch.Do vậy đã có nhiều hội nghị, diễn đànđược tổ chức ở các quy mô khác nhaunhằm hướng tới việc chống suy thoái và bảo vệ nguồn nước. Chẳng hạn như: Diễn đàn nước thế giới lần thứ haivà Hội nghị Bộ trưởng tháng 3/2000 tổchức tại Hà Lan đã thông qua tầm nhìnvà khung hành động về nước thế kỷ XXI.Từ diễn đàn này, căn cứ vào kết quả quốctế mà các quốc gia sẽ xây dựng cho mình “Chương trình hành động quốc gia về an ninh nước thế kỷ XXI”. TạiViệt Nam hội thảo quốc gia về nước thếkỷ XXI, tầm nhìn và hành động tới 2005tại Hà Nội đã thông qua tầm nhìn vềnước là: Sử dụng tổng hợp, bảo vệ tàinguyên nước vững bền và phòng chốngcó hiệu quả các tác hại về nước.Khái niệm an ninh về nước của thế giớiđược hiểu là:- Nước ngọt và hệ sinh thái được cảithiện- Ủng hộ sự phát triển bền vững và ổnđịnh chính trị- Ai cũng có nước sạch để dùng với giácả hợp lý, đảm bảo sức khoẻ và năng lựcsản xuất- Con người được bảo vệ khỏi các nguyhiểm do nước gây raỞ Việt Nam, tài nguyên nước rất phongphú và dồi dào, đặc biệt tiềm năng nước ngọt còn rất lớn, lượng nước trung 3 bình đầu người đạt 17.000km /năm,cao gần gấp 3 lần hệ số đảm bảo nướctrung bình trên thế giới. Cùng với nướcmặt, trữ lượng nước ngầm khá cao, theoE. K. Alan (1998) thì tổng số trữ lượng động tự nhiên nước dưới đất toàn lãnh thổ chưa kể phần hải đảo là1513,45 m3/s nhưng phân bố không đềutrong các vùng địa chất thủy văn. Hiệnnay, nhịp điệu khai thác nước ngầmkhoảng 10 triệu m3/ ngày. Nhìn chung,chất lượng nước bề mặt và nước ngầmcòn tốt, thỏa mản được các nhu cầu kinhtế xã hội, hệ thông sông ngòi Việt Namcó khả năng cung cấp ổn định cho cácngành một lượng nước khoảng 100 – 150km3/năm. Nạn ô nhiễm nước do hoạtđộng con người còn mang tính chất cụcbộ, chỉ xuất hiện ở một vài địa phương.Khó khăn hiện nay trên con đường pháttriển là phần lớn người dân chưa đượcdùng nước sạch và còn phải đối mặt vớinạn lụt lội và hạn hán xảy ra hàng năm.Theo Trần Hiếu Nhuệ (2000), ở nước tahiện nay có khoảng 621 đô thị lớn nhỏ,trong đó có 78 đô thị có số dân từ15.000 người trở lên, chiếm tổng sốkhoảng 12 triệu người hay 80% tổng sốdân đô thị. Số đô thị còn lại thuộc đô thịnhỏ. Hiện nay, chỉ gần 1/2 dân số đô thịđược cấp nước, tiêu chuẩn cấp nước mớiđạt 50 – 60 lít/người/ngày, tổng lượngnước cấp cho các đô thị đạt công suất 2,6triệu m3/ngày, trong đó 2/3 từ nguồnnước mặt và 1/3 từ nước dưới đất. Riêngở nông thôn mới đảm bảo cấp được“nước sạch” cho 32% dân số ở nôngthôn. Trong đó sử dụng nước giếngkhoan, giếng đào, nước từ sông ngòikhông qua xử lý khoảng 28%, nước mưa10% còn lại là các nguồn khác.Hương Thảo ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tài nguyên nước hệ sinh thái nước dưới đất nước ngầm lượng nước mưa khí quyểnGợi ý tài liệu liên quan:
-
149 trang 242 0 0
-
Giáo trình Cơ sở địa chất công trình và địa chất thủy văn công trình (Tái bản): Phần 1
185 trang 110 0 0 -
103 trang 102 0 0
-
Bài thuyết trình về Tài nguyên nước
60 trang 97 0 0 -
Bài thuyết trình Tiếp cận hệ sinh thái trong quản lý nghề cá ven bờ
34 trang 81 0 0 -
Giáo trình Hệ sinh thái rừng nhiệt đới: Phần 1
128 trang 76 0 0 -
Ứng dụng ảnh vệ tinh Landsat 7 ETM + đánh giá chất lượng nước hồ Kẻ Gỗ, tỉnh Hà Tĩnh
8 trang 74 0 0 -
Giáo án môn Địa lí lớp 10 sách Kết nối tri thức: Bài 9
18 trang 74 0 0 -
Thực vật dân tộc học: một bài học cho thế hệ tương lai Việt Nam
5 trang 71 1 0 -
362 trang 67 0 0