Danh mục

Bài giảng Vật liệu xây dựng: Phần 1

Số trang: 28      Loại file: pdf      Dung lượng: 944.95 KB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong công tác xây dựng bao giờ vật liệu cũng đóng vai trò chủ yếu. Vật liệu là một trong các yếu tố quyết định chất lượng, giá thành và thời gian thi công công trình. Để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này mời các bạn tham khảo "Bài giảng Vật liệu xây dựng: Phần 1".
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài giảng Vật liệu xây dựng: Phần 1BÀI GIẢNG VẬT LIỆU XÂY DỰNG BÀI MỞ ĐẦU I . Tầm quan trọng của vật liệu Trong công tác xây dựng bao giờ vật liệu cũng đóng vai trò chủ yếu. Vật liệulà một trong các yếu tố quyết định chất lượng, giá thành và thời gian thi công côngtrình. Thông thường chi phí về vật liệu xây dựng chiếm một tỷ lệ tương đối lớntrong tổng giá thành xây dựng: 75 - 80% đối với các công trình dân dụng và côngnghiệp, 70-75% đối với các công trình giao thông, 50 - 55% đối với các công trìnhthủy lợi. II . Sơ lược tình hình phát triển ngành sản xuất vật liệu xây dựng Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật nói chung, ngành vật liệu xâydựng cũng đã phát triển từ thô sơ đến hiện đại, từ giản đơn đến phức tạp, chấtlượng vật liệu ngày càng được nâng cao. Từ xưa loài người đã biết dùng những loại vật liệu đơn giản có trong thiênnhiên như đất, rơm rạ, đá, gỗ v.v... để xây dựng nhà cửa, cung điện, thành quách,cầu cống. Ở những nơi xa núi đá, người ta đã biết dùng gạch mộc, rồi dần về sauđã biết dùng gạch ngói bằng đất sét nung. Để gắn các viên đá, gạch rời rạc lại vớinhau, từ xưa người ta đã biết dùng một số chất kết dính rắn trong không khí nhưvôi, thạch cao. Do nhu cầu xây dựng những công trình tiếp xúc với nước và nằmtrong nước, người ta đã dần dần nghiên cứu tìm ra những chất kết dính mới, cókhả năng rắn trong nước, đầu tiên là chất kết dính hỗn hợp gồm vôi rắn trongkhông khí với chất phụ gia hoạt tính, sau đó phát minh ra vôi thủy và đến đầu thếkỷ 19 thì phát minh ra xi măng pooc lăng. Đến thời kỳ này người ta cũng đã sảnxuất và sử dụng nhiều loại vật liệu kim loại, bê tông cốt thép, bê tông ứng lựctrước, gạch silicat, bê tông xỉ lò cao v.v... Kỹ thuật sản xuất và sử dụng vật liệu trên thế giới vào những năm cuối cùngcủa thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 đã đạt đến trình độ cao, nhiều phương pháp côngnghệ tiên tiến được áp dụng như nung vật liệu gốm bằng lò tuy nen, nung xi măngbằng lò quay với nhiên liệu lỏng, sản xuất các cấu kiện bê tông dự ứng lực vớikích thước lớn, sản xuất vật liệu ốp lát gốm granit bằng phương pháp ép bán khôv.v... Ở Việt Nam từ xưa đã có những công trình bằng gỗ, gạch đá xây dựng rấtcông phu, ví dụ công trình đá thành nhà Hồ (Thanh Hóa), công trình đất Cổ Loa(Đông Anh - Hà Nội). Nhưng trong suốt thời kỳ phong kiến thực dân thống trị, kỹthuật về vật liệu xây dựng không được đúc kết, đề cao và phát triển, sau chiếnthắng thực dân Pháp (1954) và nhất là kể từ khi ngành xây dựng Việt Nam ra đời(29.4.1958) đến nay ngành công nghiệp vật liệu xây dựng đã phát triển nhanhchóng. Trong 45 năm, từ những vật liệu xây dựng truyền thống như gạch, ngói, đá,cát, xi măng, ngày nay ngành vật liệu xây dựng Việt Nam đã bao gồm hàng trămchủng loại vật liệu khác nhau, từ vật liệu thông dụng nhất đến vật liệu cao cấp vớichất lượng tốt, có đủ các mẫu mã, kích thước, màu sắc đáp ứng nhu cầu xây dựngtrong nước và hướng ra xuất khẩu . Nhờ có đường lối phát triển kinh tế đúng đắn của Đảng, ngành vật liệu xâydựng đã đi trước một bước, phát huy tiềm năng, nội lực sử dụng nguồn tài nguyênphong phú, đa dạng với sức lao động dồi dào, hợp tác, liên doanh, liên kết trong vàngoài nước, ứng dụng công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại của thế giới vào hoàncảnh cụ thể của nước ta, đầu tư, liên doanh với nước ngoài xây dựng nhiều nhàmáy mới trên khắp ba miền như xi măng Bút Sơn (1,4 triệu tấn/năm), xi măngChinfon - Hải Phòng (1,4 triệu tấn/năm), xi măng Sao Mai (1,76 triệu tấn/năm), ximăng Nghi Sơn (2,27 triệu tấn/năm). Về gốm sứ xây dựng có nhà máy ceramicHữu Hưng, Thanh Thanh, Thạch Bàn, Việt Trì, Đà Nẵng, Đồng Tâm, TaiceraShiJar v.v... Năm 1992 chúng ta mới sản xuất được 160.000 m2 loại Ceramic trángmen ốp tường 100 x 100 mm, thì năm 2002 đã cung cấp cho thị trường hơn 15triệu m2 loại: 300x300, 400x400, 500x500 mm. Một thành tựu quan trọng của ngành gốm sứ xây dựng là sự phát triển độtbiến của sứ vệ sinh. Hai nhà máy sứ Thiên Thanh và Thanh Trì đã nghiên cứu sảnxuất sứ từ nguyên liệu trong nước, tự vay vốn đầu tư trang bị dây chuyền côngnghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại đưa sản lượng hai nhà máy lên 800000 sảnphẩm/năm. Nếu kể cả sản lượng của các liên doanh thì năm 2002 đã sản xuất được1405 triệu sản phẩm sứ vệ sinh có chất lượng cao. Về kính xây dựng có nhà máy kính Đáp Cầu, với các sản phẩm kính phẳngdày 2 -5 mm, kính phản quang, kính màu, kính an toàn, gương soi đã đạt sảnlượng 7,2 triệu m2 trong năm 2002. Ngoài các loại vật liệu cơ bản trên, các sản phẩm vật liệu trang trí hoàn thiệnnhư đá ốp lát thiên nhiên sản xuất từ đá cẩm thạch, đá hoa cương, sơn silicat, vậtliệu chống thấm, vật liệu làm trần, vật liệu lợp đã được phát triển với tốc độ cao,chất lượng ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh các nhà máy vật liệu xây dựng được đầu tư với côngnghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại thì cũng còn nhiều nhà ...

Tài liệu được xem nhiều: