Tại phố chợ Kinh đô nước Nhục chi, không ai là không biết gian hàng tạp hóa to lớn của bà Năm cây thị. Không rõ bà tên thật là gì, nhưng người ta thường gọi bà là bà Năm cây thị vì trước nhà bà có cây thị sum suê đồ sộ. Bà goá chồng từ khi mới 30 tuổi, nhưng bà không tái giá, ở vậy nuôi đứa con gái độc nhất cho đến bây giờ được ngoài năm mươi. Bà đến lập nghiệp ở cái phố này chưa đầy mười năm, mà bà đã giàu lớn....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
BÀI HỌC NGÀN VÀNG - CHƯƠNG XVIII
BÀI HỌC NGÀN VÀNG
CHƯƠNG XVIII
BÀ NĂM CÂY THỊ TRỞ THÀNH MỘT ÐẠI
THƯƠNG GIA
Tại phố chợ Kinh đô nước Nhục chi, không ai là không biết gian hàng
tạp hóa to lớn của bà Năm cây thị. Không rõ bà tên thật là gì, nhưng người ta
thường gọi bà là bà Năm cây thị vì trước nhà bà có cây thị sum suê đồ sộ. Bà
goá chồng từ khi mới 30 tuổi, nhưng bà không tái giá, ở vậy nuôi đứa con
gái độc nhất cho đến bây giờ được ngoài năm mươi. Bà đến lập nghiệp ở cái
phố này chưa đầy mười năm, mà bà đã giàu lớn. Khi mới đến bà chỉ là một
cô hàng xén, làm chủ một gian hàng nhỏ tại hiên chợ. Không ai hiểu bà đã
làm cách nào mà chỉ trong khoảng mười năm, từ hai bàn tay trắng, bà đã trở
thành một đại thương gia như vậy. Có người bảo rằng bà hưởng được gia tài
của một người qua đường nàm ngủ trọ trong quán bà và chết ở đấy. Có
người bảo rằng bà được một viên ngọc rít và nhờ viên ngọc ấy mà bà phát tài
lớn. Có người bảo rằng nhà bà có thờ vị thổ công rất linh thiêng, thường
mách bảo cho bà món hàng nào nên nên mua trữ và món hàng nào không
nên mua.
Thực ra đó là những lời đồn đãi để giải thích sự bộc phát của bà. Lý
do chính sự giàu có của bà là những mánh khóe gian lận mà bà đã dùng
trong sự mua bán. Phải công nhận là bà có tài ngoại giao ăn nói mềm mỏng
dịu dàng, tiếp đón vồn vã khách hàng, nên ai cũng thích đến hàng bà. Nhưng
sự khôn khéo miệng lưỡi ấy chưa đủ để tạo cho bà một sự nghiệp đồ sộ
trong khoảng chưa đầy mười năm, nếu bà không áp dụng những mánh khóe
gian lận như dùng trái cân già khi mua và trái cân non khi bán, trao đổi hàng
hóa, phải tính phẩm vật, đầu cơ tích trữ, tóm lại không có một phương cách
gì có lợi cho bà mà bà từ chối. Bà tự bảo làm nghề buôn bán mà thật thà,
chất phác thì có nước bán nhà đi ở đợ. Cho nên bà đinh ninh rằng đã đi buôn
thì phải biết dối trá và có nhiều mánh khóe. Và càng thu lợi nhiều, bà lại
càng vững tâm tin rằng quan niệm trên của bà là đúng. Lúc mới đầu, mỗi lần
giở thủ đoạn gian dối, bà còn e dè, sợ hãi, nhưng càng lâu, bà càng chai sạn,
không thấy ăn năn hối hận nữa. Bà thản nhiên nấu lá chuối khô pha thêm
vào nước mắm, đổ nước lạnh vào dấm, trộn mạt cưa vào cám, trận cám vào
gạo, trộn gạo xấu vào gạo tốt, dán nhãn hiệu thượng hạng vào phẩm vật
hạng trung, nhãn hiệu hạng trung vào phẩm vật xấu ...
Nhưng không phải với ai bà cũng áp dụng những mánh khóe như vậy.
Bà xem mặt mà bắt hình dung: đối với người sành sỏi thì bà tỏ ra rất chân
thật, nhưng với người khờ khạo thì bà bóc lột không tiếc thương. Bà thường
bảo cô con gái: Ở đời, khôn sống, bống chết, đứa nào dại thì đứa ấy thiệt
...
Sỡ dĩ bà thường dạy khôn dạy khéo cho cô con gái của bà vì trong sự
mua bán, cô này chưa được thành thạo như bà, nghĩa là còn nhiều sơ hở đối
với khách hàng, chưa áp dụng đúng nguyên tắc khôn sống, bống chết mà
bà đề ra.
Thí dụ, thấy một đứa nhỏ đến mua hàng, theo nguyên tắc của bà thì cô
phải lợi dụng sự khờ khạo của nó để bán thứ hàng đã pha trộn nhưng đôi
khi cô lại bán thứ nguyên chất vì thấy đứa bé mặt mũi sáng sủa dễ thương.
Hay khi gặp một khách hàng nhà nghèo năn nỉ bán cho thứ hàng tốt,
cô động lòng thương, lấy thứ thiệt đưa ra. Trong những trường hợp này,
nếu bà Năm biết được thì thế nào cô cũng bị một trận mắng chửi vì bà cho là
cô đã vi phạm luật lệ mua bán của bà. Bà bảo rằng làm như vậy là gây
xáo trộn là tạo khó khăn về sau, vì lần này họ mua được thứ tốt với giá
tiền phải chăng, thì lần sau họ lại đòi cho được thứ hàng ấy và tuyên
truyền ra cho người khác biết. Thế là bà sẽ bị chất vấn và phải giải
thích rất mệt, mà đôi khi còn mất tín nhiệm với khách hàng nữa.
Công việc buôn bán của bà đang thịnh vượng như vậy thì một việc
xảy ra, đem lại cho bà nhiều khó khăn suy nghĩ.
Số là vua Ðột Quyết nước Nhục chi sau khi đem Bài học ngàn vàng
áp dụng trong cung điện và trong triều đình thấy có được nhiều kết quả tốt,
nên truyền lệnh đem bài học ấy phổ biến ra ngoài dân chúng.
Từ Kinh dô cho đến tỉnh quận, các quan sở tại có bổn phận phải làm
thế nào cho dân chúng hiểu và áp dụng được bài học nói trên.
Sáng sớm hôm ấy, tại phố chợ Kinh dô, người hai bên phố rần rần đổ
xô ra đứng hai bên đường xem một đám rước đi qua. Ðám rước gồm độ một
trăm người lính phòng thành mặc áo dấu xanh, đỏ, mang trống, thanh la, ống
loa và rất nhiều biểu ngữ có viết bài học ngàn vàng: Phàm làm việc gì,
trước phải nghĩ đến hậu quả của nó.
Ði một dặm, đám rước lại dừng lại, phóng loa nói cho mọi người biết
tôn ý của vua, giải thích nguyên do và ý nghĩa của Bài học ngàn vàng, và
trước khi đi, họ lại phát cho mỗi người đứng xem một mảnh giấy hồng điều
có chép bài học và bảo dân chúng đem về chép hay khắc lại để treo ở trong
nhà. Ai không tuân, sẽ bị phạt vạ, và tái phạm sẽ bị phạt tù.
Cô con gái của bà Năm cũng nhận được một mảnh giấy có bài họ ...