Bài học về xây dựng chính sách việc làm ở Hàn Quốc
Số trang: 11
Loại file: pdf
Dung lượng: 247.27 KB
Lượt xem: 18
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Ngày 23/6/2012, dân số của Hàn Quốc đã vượt mức 50 triệu người, với thu nhập bình quân đầu người vượt mức 20 nghìn USD. Đây là một thời điểm có ý nghĩa quan trọng đánh dấu Hàn Quốc chính thức trở thành quốc gia thứ 7 trên thế giới (sau Nhật Bản, Mỹ, Pháp, Ý, Đức và Anh) gia nhập vào nhóm các nước phát triển đạt 2 điều kiện tiêu chuẩn về kinh tế và quy mô dân số (tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người phải vượt mức 20 nghìn USD và dân...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài học về xây dựng chính sách việc làm ở Hàn Quốc Bài học về xây dựng chính sách việc làm ở Hàn Quốc Ngày 23/6/2012, dân số của Hàn Quốc đã vượt mức 50 triệu người, với thu nhập bình quân đầu người vượt mức 20 nghìn USD. Đây là một thời điểm có ý nghĩa quan trọng đánh dấu Hàn Quốc chính thức trở thành quốc gia thứ 7 trên thế giới (sau Nhật Bản, Mỹ, Pháp, Ý, Đức và Anh) gia nhập vào nhóm các nước phát triển đạt 2 điều kiện tiêu chuẩn về kinh tế và quy mô dân số (tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người phải vượt mức 20 nghìn USD và dân số phải vượt trên 50 triệu người). Kinh nghiệm phát triển của Hàn Quốc cho thấy, tỷ lệ số dân trong độ tuổi lao động là yếu tố quan trọng và có sức ảnh hưởng mạnh đến nền kinh tế năng động của quốc gia phát triển này. Sự phát triển mạnh mẽ của Hàn Quốc trong những năm 1970-1980 là nhờ có một lực lượng lao động dồi dào vốn được sinh ra trong thời kỳ bùng nổ dân số từ năm 1953 đến năm 1965. Sự phát triển về kinh tế Hàn Quốc được đặc trưng bởi sự tăng trưởng cao liên tục trong một thời gian dài, bắt đầu từ năm 1963 và trong giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1993 đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người là 8,2%. Điều này đã làm cho Hàn Quốc trở thành một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất trong lịch sử thế giới hiện đại. Tuy nhiên, hiện nay, tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động của Hàn Quốc đang có chiều hướng thu nhỏ so với tổng dân số. Nguyên nhân chính là do tỷ lệ sinh thấp1[1] và hiện tượng già hóa dân 1[1] Tỷ suất sinh hay trung bình số trẻ em được sinh ra bởi một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đạt 4,53 con vào những năm 1970, đây là 1 con số khá cao. Nhưng con số đó giảm xuống còn 1,2 con, chỉ bằng 1/4 so với mức ban đầu vào năm 2010. 2[2] Sự già hóa dân số ở Hàn Quốc bắt đầu tăng tốc từ những năm 2000 khi số người cao tuổi vượt quá 7% tổng dân số. Và theo kết quả tổng điều tra dân số năm 2010 được công bố tháng trước, số người trên 65 tuổi giờ đây đã chiếm 11,3% tổng số dân, một tỷ lệ đáng báo động về tình trạng già hóa dân số. Số người trong độ tuổi lao động là 19,53 triệu người, chiếm khoảng 40,7% tổng dân số. 3[3] Hàn Quốc có tỷ lệ sinh thấp nhất trong số các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). 4[4] Hàn Quốc là nước có tỉ lệ thất nghiệp thấp thứ 2 trong số 34 nước thành viên của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) số2[2]. Sự thay đổi cơ cấu dân số theo chiều hướng này có thể sẽ làm chậm tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc. Nếu Hàn Quốc tiếp tục duy trì tốc độ già hóa dân số nhanh nhất trên thế giới như hiện nay3[3] thì dân số già sẽ đông hơn dân số lao động vào năm 2039 và tốc độ tăng trưởng kinh tế tiềm năng vốn đang ở mức 4,2%, dự kiến sẽ giảm xuống 3,1% vào năm 2023 và 2,5% vào năm 2050. Theo báo cáo của Cục thống kê Hàn Quốc, số người có việc làm hiện nay là 24,673 triệu người. Tỉ lệ thất nghiệp hiện đang ở mức 2,9%4[4]. Hàn Quốc coi chính sách việc làm là một chính sách kinh tế - xã hội quan trọng đối với sự phát triển của quốc gia. Mục tiêu quan trọng nhất của chính sách việc làm hiện nay của Hàn Quốc là hỗ trợ các thành phần yếu nhất trong xã hội gồm những người trẻ, những người về hưu được sinh ra trong giai đoạn bùng nổ dân số và những người già, nhằm giúp họ tham gia vào các hoạt động kinh tế. Các chính sách của Chính phủ Hàn Quốc hướng đến mục tiêu tạo ra nhiều việc làm mới và mang lại thu nhập ổn định, đặc biệt cho các tầng lớp thu nhập thấp trong xã hội. Mặc dù cơ cấu dân số già, tỷ lệ tham gia lao động giảm đang ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc nhưng lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao đã tạo nên sức mạnh giúp nền kinh tế Hàn Quốc tiếp tục đà tăng trưởng. Do vậy, việc nghiên cứu quá trình xây dựng và phát triển chính sách việc làm của Hàn Quốc gắn liền với quá trình phát triển kinh tế và trải qua bốn giai đoạn là hết sức có ý nghĩa đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam để có thể rút ngắn quá trình và đẩy nhanh tốc độ phát triển. 1. Giai đoạn đầu (những năm 1960): Đặt nền móng cho phát triển dạy nghề và tạo việc làm. Có một số nét khá tương đồng với Việt Nam ngay từ năm 1962 đã xác định việc xây dựng kế hoạch phát triển - xã hội theo giai đoạn 5 năm một lần. Tuy nhiên, Hàn Quốc xác định khá rõ ràng mục tiêu lấy phát triển việc làm để xây dựng nền tảng kinh tế độc lập. Sâu xa trong hàm ý tư tưởng này là việc xác định nguồn lực con người là chìa khóa mấu chốt để phát triển. Giai đoạn những năm 1960 là thời kỳ nền kinh tế thiếu trầm trọng vốn, kỹ thuật và nhân lực. Thực trạng nhân lực Hàn Quốc thời kỳ đó chủ yếu là lao động phổ thông, thiếu lao động chuyên môn, vì vậy Chính phủ Hàn Quốc đã thúc đẩy chiến lược đầu tư nhân lực nhàn rỗi khu vực nông thôn, nhân lực thất nghiệp tại thành phố thành lực lượng lao động trọng tâm cho ngành công nghiệp nhẹ, đồng thời cũng là hướng tới mục tiêu tăng cường chỗ làm việc và công nghiệp hóa mô hình xuất khẩu - Như vậy, ngay từ thời kỳ đầu Hàn Quốc đã lấy lao động làm trung tâm động lực để công nghiệp hóa. Khắc phục tình trạng đào tạo nghề thiếu hệ thống, sử dụng nhiều lao động phổ thông bằng việc ban hành Luật Bảo đảm việc làm (1962), Luật Đào tạo nghề (1967). Trong đó, tập trung chủ yếu vào việc xây dựng tiêu chuẩn cho đào tạo nghề và kiểm tra năng lực, chất lượng đào tạo nghề để nhằm thúc đẩy đào tạo nghề có hệ thống, áp dụng hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp trong công tác đào tạo nghề. Tăng cường cơ hội việc làm và chỗ làm việc thực tế để giải quyết vấn đề thiếu việc làm trong nước, hỗ trợ xuất khẩu lao động đến các nước Đức, khu vực Trung Đông ... 2. Giai đoạn những năm 1970: Phát triển công nghiệp nặng và chú trọng công tác đào tạo nghề. Giai đoạn này, Hàn Quốc chuyển dịch cơ cấu từ công nghiệp nhẹ sang công nghiệp nặng và hóa chất, vì vậy yêu cầu về nguồn nhân lực kỹ thuật cao cũng gia tăng nhanh chóng, đồng thời cũng bộc lộ rõ việc thiếu trầm trọng đội ngũ chuyên gia, trang thiết bị, nguồn vốn cho công tác đào tạo nghề. Đ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài học về xây dựng chính sách việc làm ở Hàn Quốc Bài học về xây dựng chính sách việc làm ở Hàn Quốc Ngày 23/6/2012, dân số của Hàn Quốc đã vượt mức 50 triệu người, với thu nhập bình quân đầu người vượt mức 20 nghìn USD. Đây là một thời điểm có ý nghĩa quan trọng đánh dấu Hàn Quốc chính thức trở thành quốc gia thứ 7 trên thế giới (sau Nhật Bản, Mỹ, Pháp, Ý, Đức và Anh) gia nhập vào nhóm các nước phát triển đạt 2 điều kiện tiêu chuẩn về kinh tế và quy mô dân số (tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người phải vượt mức 20 nghìn USD và dân số phải vượt trên 50 triệu người). Kinh nghiệm phát triển của Hàn Quốc cho thấy, tỷ lệ số dân trong độ tuổi lao động là yếu tố quan trọng và có sức ảnh hưởng mạnh đến nền kinh tế năng động của quốc gia phát triển này. Sự phát triển mạnh mẽ của Hàn Quốc trong những năm 1970-1980 là nhờ có một lực lượng lao động dồi dào vốn được sinh ra trong thời kỳ bùng nổ dân số từ năm 1953 đến năm 1965. Sự phát triển về kinh tế Hàn Quốc được đặc trưng bởi sự tăng trưởng cao liên tục trong một thời gian dài, bắt đầu từ năm 1963 và trong giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1993 đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người là 8,2%. Điều này đã làm cho Hàn Quốc trở thành một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất trong lịch sử thế giới hiện đại. Tuy nhiên, hiện nay, tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động của Hàn Quốc đang có chiều hướng thu nhỏ so với tổng dân số. Nguyên nhân chính là do tỷ lệ sinh thấp1[1] và hiện tượng già hóa dân 1[1] Tỷ suất sinh hay trung bình số trẻ em được sinh ra bởi một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đạt 4,53 con vào những năm 1970, đây là 1 con số khá cao. Nhưng con số đó giảm xuống còn 1,2 con, chỉ bằng 1/4 so với mức ban đầu vào năm 2010. 2[2] Sự già hóa dân số ở Hàn Quốc bắt đầu tăng tốc từ những năm 2000 khi số người cao tuổi vượt quá 7% tổng dân số. Và theo kết quả tổng điều tra dân số năm 2010 được công bố tháng trước, số người trên 65 tuổi giờ đây đã chiếm 11,3% tổng số dân, một tỷ lệ đáng báo động về tình trạng già hóa dân số. Số người trong độ tuổi lao động là 19,53 triệu người, chiếm khoảng 40,7% tổng dân số. 3[3] Hàn Quốc có tỷ lệ sinh thấp nhất trong số các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). 4[4] Hàn Quốc là nước có tỉ lệ thất nghiệp thấp thứ 2 trong số 34 nước thành viên của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) số2[2]. Sự thay đổi cơ cấu dân số theo chiều hướng này có thể sẽ làm chậm tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc. Nếu Hàn Quốc tiếp tục duy trì tốc độ già hóa dân số nhanh nhất trên thế giới như hiện nay3[3] thì dân số già sẽ đông hơn dân số lao động vào năm 2039 và tốc độ tăng trưởng kinh tế tiềm năng vốn đang ở mức 4,2%, dự kiến sẽ giảm xuống 3,1% vào năm 2023 và 2,5% vào năm 2050. Theo báo cáo của Cục thống kê Hàn Quốc, số người có việc làm hiện nay là 24,673 triệu người. Tỉ lệ thất nghiệp hiện đang ở mức 2,9%4[4]. Hàn Quốc coi chính sách việc làm là một chính sách kinh tế - xã hội quan trọng đối với sự phát triển của quốc gia. Mục tiêu quan trọng nhất của chính sách việc làm hiện nay của Hàn Quốc là hỗ trợ các thành phần yếu nhất trong xã hội gồm những người trẻ, những người về hưu được sinh ra trong giai đoạn bùng nổ dân số và những người già, nhằm giúp họ tham gia vào các hoạt động kinh tế. Các chính sách của Chính phủ Hàn Quốc hướng đến mục tiêu tạo ra nhiều việc làm mới và mang lại thu nhập ổn định, đặc biệt cho các tầng lớp thu nhập thấp trong xã hội. Mặc dù cơ cấu dân số già, tỷ lệ tham gia lao động giảm đang ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc nhưng lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao đã tạo nên sức mạnh giúp nền kinh tế Hàn Quốc tiếp tục đà tăng trưởng. Do vậy, việc nghiên cứu quá trình xây dựng và phát triển chính sách việc làm của Hàn Quốc gắn liền với quá trình phát triển kinh tế và trải qua bốn giai đoạn là hết sức có ý nghĩa đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam để có thể rút ngắn quá trình và đẩy nhanh tốc độ phát triển. 1. Giai đoạn đầu (những năm 1960): Đặt nền móng cho phát triển dạy nghề và tạo việc làm. Có một số nét khá tương đồng với Việt Nam ngay từ năm 1962 đã xác định việc xây dựng kế hoạch phát triển - xã hội theo giai đoạn 5 năm một lần. Tuy nhiên, Hàn Quốc xác định khá rõ ràng mục tiêu lấy phát triển việc làm để xây dựng nền tảng kinh tế độc lập. Sâu xa trong hàm ý tư tưởng này là việc xác định nguồn lực con người là chìa khóa mấu chốt để phát triển. Giai đoạn những năm 1960 là thời kỳ nền kinh tế thiếu trầm trọng vốn, kỹ thuật và nhân lực. Thực trạng nhân lực Hàn Quốc thời kỳ đó chủ yếu là lao động phổ thông, thiếu lao động chuyên môn, vì vậy Chính phủ Hàn Quốc đã thúc đẩy chiến lược đầu tư nhân lực nhàn rỗi khu vực nông thôn, nhân lực thất nghiệp tại thành phố thành lực lượng lao động trọng tâm cho ngành công nghiệp nhẹ, đồng thời cũng là hướng tới mục tiêu tăng cường chỗ làm việc và công nghiệp hóa mô hình xuất khẩu - Như vậy, ngay từ thời kỳ đầu Hàn Quốc đã lấy lao động làm trung tâm động lực để công nghiệp hóa. Khắc phục tình trạng đào tạo nghề thiếu hệ thống, sử dụng nhiều lao động phổ thông bằng việc ban hành Luật Bảo đảm việc làm (1962), Luật Đào tạo nghề (1967). Trong đó, tập trung chủ yếu vào việc xây dựng tiêu chuẩn cho đào tạo nghề và kiểm tra năng lực, chất lượng đào tạo nghề để nhằm thúc đẩy đào tạo nghề có hệ thống, áp dụng hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp trong công tác đào tạo nghề. Tăng cường cơ hội việc làm và chỗ làm việc thực tế để giải quyết vấn đề thiếu việc làm trong nước, hỗ trợ xuất khẩu lao động đến các nước Đức, khu vực Trung Đông ... 2. Giai đoạn những năm 1970: Phát triển công nghiệp nặng và chú trọng công tác đào tạo nghề. Giai đoạn này, Hàn Quốc chuyển dịch cơ cấu từ công nghiệp nhẹ sang công nghiệp nặng và hóa chất, vì vậy yêu cầu về nguồn nhân lực kỹ thuật cao cũng gia tăng nhanh chóng, đồng thời cũng bộc lộ rõ việc thiếu trầm trọng đội ngũ chuyên gia, trang thiết bị, nguồn vốn cho công tác đào tạo nghề. Đ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
xây dựng chính sách chính sách việc làm Khoa học pháp lý kinh nghiệm quốc tế nghiên cứu pháp luật cải cách tư pháp hệ thống pháp luật bộ máy nhà nướcGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Pháp luật đại cương: Phần 1 - ThS. Đỗ Văn Giai, ThS. Trần Lương Đức
103 trang 987 4 0 -
BÀI THU HOẠCH QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VÀ QUẢN LÍ GIÁO DỤC
16 trang 296 0 0 -
Tổng hợp các vấn đề về Luật Dân sự
113 trang 268 0 0 -
Bài thuyết trình Chi trả dịch vụ môi trường: Kinh nghiệm quốc tế
19 trang 245 0 0 -
9 trang 227 0 0
-
67 trang 216 0 0
-
6 trang 178 0 0
-
22 trang 142 0 0
-
CẢI CÁCH TÒA ÁN–TRỌNG TÂM CỦA CẢI CÁCH TƯ PHÁP
4 trang 123 0 0 -
Cải cách tòa án ở Việt Nam: Kết quả và những vấn đề đặt ra
7 trang 118 0 0