Danh mục

Bài kệ thị tịch của đại sư khuông việt – một chân lí giản dị và những ứng dụng giàu hữu ích cho cuộc sống

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 361.01 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài kệ thị tịch của Khuông Việt đại sư ở thế kỉ X đã nêu ra một mệnh đề bản thể luận có tầm quan trọng lớn lao – “Trong cây vốn có lửa” – khẳng định trong mỗi con người đều có tự tính sángsuốt, cần tự tin để quay trở về khơi dậy nguồn nội lực vô biên này. Đây là một chân lí về nhận thức bản thân, từ đó có thể phát huy những giá trị lớn lao của con người trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài kệ thị tịch của đại sư khuông việt – một chân lí giản dị và những ứng dụng giàu hữu ích cho cuộc sốngTRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINHHO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF EDUCATIONTẠP CHÍ KHOA HỌCJOURNAL OF SCIENCEKHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂNSOCIAL SCIENCES AND HUMANITIESISSN:1859-3100 Tập 14, Số 4b (2017): 30-36Vol. 14, No. 4b (2017): 30-36Email: tapchikhoahoc@hcmue.edu.vn; Website: http://tckh.hcmue.edu.vnBÀI KỆ THỊ TỊCH CỦA ĐẠI SƯ KHUÔNG VIỆT –MỘT CHÂN LÍ GIẢN DỊVÀ NHỮNG ỨNG DỤNG GIÀU HỮU ÍCH CHO CUỘC SỐNGĐoàn Thị Thu Vân*Khoa Ngữ văn – Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí MinhNgày Toà soạn nhận được bài: 20-01-2017; ngày phản biện đánh giá bài: 25-02-2017; ngày chấp nhận đăng bài: 15-4-2017TÓM TẮTBài kệ thị tịch của Khuông Việt đại sư ở thế kỉ X đã nêu ra một mệnh đề bản thể luận có tầmquan trọng lớn lao – “Trong cây vốn có lửa” – khẳng định trong mỗi con người đều có tự tính sángsuốt, cần tự tin để quay trở về khơi dậy nguồn nội lực vô biên này. Đây là một chân lí về nhận thức bảnthân, từ đó có thể phát huy những giá trị lớn lao của con người trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.Từ khóa: kệ, mệnh đề bản thể luận, tự tính.ABSTRACTThe Great Bonze Khuong Viet’s Death Poem: A Simple Truth and Helpful Life-ApplicationThe Great Bonze Khuong Viet’s Death Poem in the tenth century raises an importantontological question – “The fire exists in trees”. It suggests that everyone has an lucid essence,which is an immense internal resource he/she needs to return to and arouse confidently. This truthof self-awareness is able to promote significant values of humanity in all areas of life.Keywords: Buddhist poetry, ontological question, essence.1.Kệ thị tịch được xem là những chânlí tối hậu đúc kết được từ kinh nghiệm mộtđời tu hành của một thiền sư trao truyền lạicho thế hệ đi sau. Kệ thị tịch của mỗi thiềnsư có khác nhau nói lên chỗ liễu ngộ sâu xanhất của mỗi người và cũng là điều cốt tủynhất mà người thầy muốn nhắc nhở, lưutâm học trò. Khuông Việt đại sư, cây đạithụ chốn thiền lâm thế kỉ thứ X, cũng là vịquốc sư từng góp công lớn giúp hai triềuđại Đinh, Lê đặt những nền móng ban đầucho kỉ nguyên độc lập tự chủ của đất nước,đã gửi gắm những sở đắc từ một đời họcđạo và hành đạo giúp đời tích cực của*Email: utcungtv@yahoo.com30mình trong bài kệ thị tịch nhiều hàm ýđáng suy ngẫm:Mộc trung nguyên hữu hỏaNguyên hỏa phục hoàn sinhNhược vị mộc vô hỏaToản toại hà do manh?1Tạm dịch:Vốn trong cây có lửaLửa ấy lại bùng lênNếu bảo cây không lửaCọ xát, lấy gì sinh?1Những bài thơ, câu thơ trích dẫn trong bài này dẫn theoThơ văn Lý Trần, tập I (1977) và tập III, quyển thượng(1989), Viện Văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCMBằng hình ảnh ẩn dụ cụ thể, sinhđộng và lối kết cấu giàu tính hùng biện –nêu phản đề để biện luận đánh đổ, nhằmphá bỏ triệt để những mê muội lầm lạc nơingười học đạo, bài thi – kệ của KhuôngViệt là một lời cảnh tỉnh sấm sét chonhững ai mãi lo tìm kiếm Phật – Đạo ở bênngoài. Giống như trong cây vốn có lửa,trong mỗi người vốn có Phật tính, vì thếmỗi người đều có khả năng thành Phật.Nếu trong ta không có Phật, không có sẵntự tính sáng suốt thì dù chạy tìm khắp đôngtây, đọc hết thiên kinh vạn quyển, sao cóthể thấy Phật, thành Phật được? Bằng câugiả thiết đi kèm với câu hỏi truy bức này(“Nhược vị mộc vô hỏa, Toản toại hà domanh?”), tác giả muốn thức tỉnh mọingười, để họ trở về với chính mình, “kiếntính thành Phật”, và phê phán tâm lí ỷ lại,không chịu tự mình phát huy tiềm năng sẵncó mà chờ đợi trợ lực ở bên ngoài. Tôn chỉcủa Thiền tông có nhiều điểm, nhưng đâycó lẽ là điểm mà Khuông Việt tâm đắc nhấtvà muốn nhắc nhở mọi người nhiều nhất.Đây cũng chính là đường lối của Phật giáoThiền tông Việt Nam dưới triều Đinh, Lê,Lí nói riêng, thời đại Lí - Trần nói chungđược các thiền sư và trí thức đương thờivận dụng nhất quán. Đạo Hạnh ở đời Lí đãđưa ra hình ảnh ẩn dụ: người đời thườngđánh mất hạt ngọc quý mình vốn có, chẳngkhác gì anh nhà giàu có con ngựa hay màkhông biết cưỡi lại cứ đi bộ một cách đángthương2. Trực tiếp hơn, Diệu Nhân vàQuảng Nghiêm thẳng thắn và mạnh mẽ lêntiếng cảnh tỉnh:2Tập 14, Số 4b (2017): 30-36“Mê chi cầu Phật,Hoặc chi cầu Thiền.Thiền, Phật bất cầu,Uổng khẩu vô ngôn”.(Mê muội cầu PhậtNhầm lẫn cầu ThiềnThiền, Phật chẳng cầuUổng miệng không nói)(Sinh lão bệnh tử – Diệu Nhân)“Nam nhi tự hữu xung thiên chí,Hưu hướng Như Lai hành xứ hành”(Kẻ làm trai tự mình có chí xôngthẳng lên trời,Đừng nên dẫm theo vết chân mà NhưLai đã đi)(Thị tịch – Quảng Nghiêm)Ý nghĩa nhân văn sâu sắc biết baonơi những đệ tử nhà Phật đã bác bỏ sựsùng tín mê muội vào Phật, vào Thiền,khuyến cáo mọi người không nên dẫm theovết mòn của Như Lai mà phải tự lực, hiênngang, có chí khí riêng tự khai phá conđường đến chân lí phù hợp với bản thânmình. Đấy chính là sự khẳng định conngười ngang hàng với Phật, Tổ, “phàmthánh bất dị” mà nhữn ...

Tài liệu được xem nhiều: