Bài tập 'Mối quan hệ giữa lôgíc hình thức và lôgíc biện chứng. Ý nghĩa đối với việc phát triển tư duy cho học viên đào tạo sau đại học' giới thiệu đến các bạn những nội dung về sự hình thành và phát triển của lôgic học hình thức và lôgic học biện chứng, mối quan hệ giữa logic học hình thức và logic học biện chứng, ý nghĩa của việc nghiên cứu lôgíc học đối với học viên sau đại học. Mời các bạn cùng tham khảo.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài tập: Mối quan hệ giữa lôgíc hình thức và lôgíc biện chứng. Ý nghĩa đối với việc phát triển tư duy cho học viên đào tạo sau đại học Mối quan hệ giữa lôgíc hình thức và lôgíc biện chứng. Ý nghĩa đối với việc phát triển tư duy cho học viên đào tạo sau đại học. * Sự hình thành và phát triển của lôgic học hình thức và lôgic học biện chứng. Nhân loại bắt đầu suy nghĩ theo những quy luật của lôgic từ rất lâu trước khi những quy luật này được khoa học khám phá ra. Nhưng đó chỉ là cái lôgic tự phát, kinh nghiệm. Nói cách khác, tư duy hay suy nghĩ của con người khi đó chưa trở thành đối tượng của nhận thức khoa học. Tro ng xã hội chiếm hữu nô lệ, khi mà hoạt động của đời sống xã hội đã được mở rộng, nhận thức khoa học được hình thành, quá trình tranh luận, thảo luận thời kỳ dân chr thành Aten đòi hỏi không thể hạn chế ở kinh nghiệm tự phát, mà nghiên cứu những nguyên lý của tư duy chính xác, của những chứng minh, luận luận với cấu tạo của khái niệm, phán đoán... một cách đúng đắn. Lôgic hình thức ra đời trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử đó. Những người đầu tiên nghiên cứu những vấn đề của lôgic học là các nhà triết học duy vật như Hêraclít (khoảng 540480 tr.CN), Đêmôcrit (khoảng 460 – 370 tr.CN). Ngay từ buổi đầu xuất hiện, lôgic học đã được coi là một bộ phận cấu thành tri thức triết học. Thuỷ tổ của khoa học lôgic là nhà tư tưởng Hy lạp cổ đại Arixtốt (384322 tr.CN). Trên cơ sở tổng kết những hạt nhân của các trường phái học thuật trước đó, Arixtốt đã xây dựng hệ thống các nguyên lý, quy luật, phương pháp và phát triển tiếp tục cả về mặt lý thuyết lẫn thực hành. Các tác phẩm thuộc phạm vi lôgic học được tập hợp lại thành bộ sách “Organông” (bộ công cụ, phương pháp nghiên cứu), với 6 tác phẩm: 1. Phạm trù, thực chất là học thuyết về khái niệm, hình thức cơ bản của tư duy. 2. Lý giải, trình bày học thuyết về phán đoán, hình thức cơ bản của tư duy. 1 3. Phân tích (I), học thuyết về tam đoạn luận, hình thức cơ bản của suy luận diễn dịch. 4. Phân tích (II), học thuyết về chứng minh, hình thức cơ bản của chứng minh. 5. Thuật tranh biện, học thuyết về phép biện chứng với ý nghĩa là nghệ thuật tranh luận. 6. Bác bỏ ngụy biện, phê phán những khuynh hướng lạm dụng phép biện chứng. Theo Arixtốt, cơ sở của tư duy đúng đắn (nghĩa là đạt tới chân lý khách quan) trước hết phải tuân theo các quy luật cơ bản: quy luật đồng nhất, quy luật cấm mâu thuẫn, quy luật loại trừ cái thứ ba. Thành tích suất sắc của Arixtốt là xây dựng học thuyết về tam đoạn luận, hình thức cơ bản nhất của suy lý diễn dịch, với những cầu hình, cách thức và quy tắc của có, mà lôgic học hình thức sau này chỉ còn là sự hoàn thiện để vận dụng. Arixtốt đã bao quát được toàn bộ phạm vi, thực chất là đối tượng của logic học, đặt nền móng cho khoa học logic phát triển trong nhiều thế kỷ sau. Có thể khẳng định rằng, Arixtốt đã có công đầu trong việc chỉ ra bản chất, kết cấu bên trong của tư duy và đã rút ra từ nội dung hiện thực của suy nghĩ những hình thức lôgic. Theo ông, những quy tắc, quy luật lôgic không phải là cái tuỳ tiện đặt ra mà có nguồn gốc khách quan là xuất phát từ thế giới hiện thực, còn khoa học lôgic là khoa học về sự khẳng định chân lý và bác bỏ những phán đoán sai lầm, xuyên tạc tình hình thực tế của sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, trong logic học của Arixtốt có nhiều nhân tố biện chứng liên hợp với siêu hình học. Ông đã chống lại học thuyết về tính mâu thuẫn của sự vật do Hêraclít nêu ra, do đó, lôgic học của Arixtốt đã bị các nhà triết học kinh viện thời kỳ trung cổ lợi dụng như một công cụ chững minh cho quan điểm của thần học, Organon đã biến thành Canon (luật lệ) 2 Từ thế kỷ XVII về sau, do sự phát triển của công nghiệp, của hàng hải và thương mại đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển khá mạnh của lôgic học quy nạp mà người sáng lập là F.Bêcơn (15611626). Với tư cách là một phương pháp mới, lôgic học quy nạp đã rút ra những nguyên lý chung, quy luật phổ quát từ những tri thức kinh nghiệm. Nhu cầu nhận thức khoa học không dừng lại ở phương pháp quy nạp mà còn thúc đẩy phương pháp diễn dịch ra đời và phát triển. Với phương pháp này, nhà triết học Pháp R. Đềcáctơ (15961650) đã đưa lôgic học phát triển thêm một bước, đạt được những thành tựu mới. Từ đó, lôgic học được coi là vũ khí nhận thức sắc bén của mọi khoa học. Tuy nhiên, bước sang thế kỷ XVIII, phép siêu hình đã xuyên tạc đối tượng và tính chất của các quy luật lôgic học hình thức. Lôgic diễn dịch nói riêng và lôgic hình thức nói chung có một bước phát triển mới từ sau công trình của G. Labnít (16461716). Ông đã hoàn thiện hệ thống quy luật cơ bản của l ...