Bài tập tư tưởng Hồ Chí Minh
Số trang: 3
Loại file: doc
Dung lượng: 46.00 KB
Lượt xem: 22
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài giữa kỳ: Hãy phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và cách mạng dân tộc ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài tập tư tưởng Hồ Chí Minh Trường: Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Bộ môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh Họ và tên: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Văn học K52 Bài giữa kỳ: Hãy phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và cáchmạng dân tộc thể hiện trong tác phẩm Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ. Dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử. Trướcdân tộc là những tổ chức cộng đồng tiền dân tộc như thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. Sựra đời và phát triển của Chủ nghĩa Tư bản dẫn đến sự ra đời của các nhà nướcdân tộc Tư bản chủ nghĩa. Khi Chủ nghĩa Đế quốc ra đời đã đi xâm chiếm vàthống trị các dân tộc nhược tiểu, từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa. Trong quá trình tìm đường cứu nước (1911-1941), Hồ Chí Minh đã cónhững đóng góp to lớn cho cách mạng giải phóng dân tộc của các nước trên thếgiới. Người lên án chủ nghĩa thực dân, thức tỉnh các dân tộc thuộc địa bằng việctố cáo tội ác man rợ của bọn thực dân ở thuộc địa-cái gọi là chính sách khai hoácủa chúng; chỉ ra những nguyên nhân đau khổ và con đường đưa các dân tộc bịáp bức đến thắng lợi của cuộc đấu tranh tự giải phóng - con đường cách mạngvô sản. Người còn thức tỉnh các Đảng Cộng sản châu Âu nhận thức đúng đắnvề tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa bằng việc tận dụng mọi cơ hội cóđược để tuyên truyền thuyết phục các Đảng Cộng sản hiểu được rằng vậnmệnh của giai cấp vô sản ở các nước đế quốc đi xâm lược thuộc địa cần gắnchặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa, rằng giai cấp vô sảnở chính quốc phải giúp đỡ giai cấp vô sản ở thuộc địa không chỉ bằng lời nói màphải bằng hành động. Đó là sự cần thiết phải thực hiện sự liên minh chiến đấugiữa cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộcđịa. Nhân tố quyết định là sự nỗ lực của bản thân nhân dân các dân tộc thuộcđịa. Cách mạng vô sản có thể nổ ra và giành thắng lợi ở các nước thuộc địatrước ở chính quốc. Thực tế trong ngót một thế kỷ qua đã chứng minh điều đó. Trong tác phẩm Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ đã thể hiện đượcTư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng dân tộc. Dân tộc như là một chỉnh thể thống nhất giữa các tầng lớp trong mộtquốc gia. Tuy nhiên, do kinh tế lạc hậu, sự phân hoá giai cấp chưa triệt để, nên“cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây”. Còn có sựphân chia giai cấp, không có một tổ chức, một sự thống nhất nhất định: “Vềphía người lao động, đó là sự không giác ngộ, sự nhẫn nhục và vô tổ chức. Vềphía bọn chủ, không máy móc, ruộng đồng thuộc sở hữu của những địa chủhạng trung và hạng nhỏ và những mà những kẻ mà ở đó được coi là đại địa chủthì chỉ những tên lùn tịt bên cạnh những người trùng tên với họ ở châu Âu vàchâu Mỹ; không có tỷ phú người An Nam. Những tên trọc phú ở đó thì ở dây chỉlà những kẻ thực lợi khá giả thôi”.Mặc dù vậy chủ nghĩa yêu nước và tinh thândân tộc vẫn là một động lực to lớn của đất nuớc, “chính nó đã gây nên cuộc nổidậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những người culi biết phản đối, nó làmcho những người “nhà quê” phản đối ngầm trước thuế tạp dịch và thuế muối.Cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn luôn thúc đẩy các nhà buôn An Nam cạnh tranhvới người Pháp và người Trung Quốc; nó đã thúc dục thanh niên bãi kho, làmcho những nhà cách mạng trốn sang Nhật Bản và làm vua Duy Tân khởi nghĩanăm 1917”. Và chính “chiến tranh đã làm thay đổi chủ nghĩa dân tộc” Đối với cách mạng giải phóng dân tộc: Cuộc cách mạng giải phóng dântộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân và có tổ chức. Cuộc cách mạng giảiphóng dân tộc là cuộc cách mạng có “tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúngchứ không phải là một cuộc nổi loạn. Cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn bịtrong quần chúng,nổ ra trong thành phố theo kiểu các cuộc cách mạng ở châuÂu, chứ không phải nổ ra đột ngột ở biên giới Trung Quốc theo phương phápcủa những nhà cách mạng trước đây” Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạolực, tức là tiến hành đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang, khi điều kiện chophép thì thực hành đấu tranh ngoại giao. Phải tranh thủ sự ủng hộ của các nướctrên thế giới, đặc biệt là sự ủng hộ của nước Nga vì: “Các Xôviết sẽ cung cấpvũ khí, tiền bạc và các kĩ thuật viên, các binh sĩ, các thuỷ thủ bản xứ được đàotạo trước đó ở Mátxcơva. Ngoài ra nước Nga sẽ có một hạm đội khá mạnh ởThai Bình Dương, để ngăn cản sự can thiệp một vài cường quốc có thoả thuậnvới Pháp trong việc chống người bản xứ” Cách mạng giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô sảnmới dành được thắng lợi hoàn toàn và phải nổ ra cùng với cuộc cách mạng ởchính quốc. Người nói: “Cuộc khởi nghĩa phải trùng hợp với cách mạng vô sảnở Pháp” và “Sự nghiệp của người bản xứ gắn mật thiết với sự nghiệp vô sảntoàn thế giới mỗi khi chủ nghĩa cộng sản giành được chút ít thắng lợi trong mộtnước nào đó, nhất là trong một quốc gia đế quốc chủ nghĩa thì đó càng là thắnglợi cho cả người An ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài tập tư tưởng Hồ Chí Minh Trường: Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Bộ môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh Họ và tên: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Văn học K52 Bài giữa kỳ: Hãy phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và cáchmạng dân tộc thể hiện trong tác phẩm Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ. Dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử. Trướcdân tộc là những tổ chức cộng đồng tiền dân tộc như thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. Sựra đời và phát triển của Chủ nghĩa Tư bản dẫn đến sự ra đời của các nhà nướcdân tộc Tư bản chủ nghĩa. Khi Chủ nghĩa Đế quốc ra đời đã đi xâm chiếm vàthống trị các dân tộc nhược tiểu, từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa. Trong quá trình tìm đường cứu nước (1911-1941), Hồ Chí Minh đã cónhững đóng góp to lớn cho cách mạng giải phóng dân tộc của các nước trên thếgiới. Người lên án chủ nghĩa thực dân, thức tỉnh các dân tộc thuộc địa bằng việctố cáo tội ác man rợ của bọn thực dân ở thuộc địa-cái gọi là chính sách khai hoácủa chúng; chỉ ra những nguyên nhân đau khổ và con đường đưa các dân tộc bịáp bức đến thắng lợi của cuộc đấu tranh tự giải phóng - con đường cách mạngvô sản. Người còn thức tỉnh các Đảng Cộng sản châu Âu nhận thức đúng đắnvề tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa bằng việc tận dụng mọi cơ hội cóđược để tuyên truyền thuyết phục các Đảng Cộng sản hiểu được rằng vậnmệnh của giai cấp vô sản ở các nước đế quốc đi xâm lược thuộc địa cần gắnchặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa, rằng giai cấp vô sảnở chính quốc phải giúp đỡ giai cấp vô sản ở thuộc địa không chỉ bằng lời nói màphải bằng hành động. Đó là sự cần thiết phải thực hiện sự liên minh chiến đấugiữa cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộcđịa. Nhân tố quyết định là sự nỗ lực của bản thân nhân dân các dân tộc thuộcđịa. Cách mạng vô sản có thể nổ ra và giành thắng lợi ở các nước thuộc địatrước ở chính quốc. Thực tế trong ngót một thế kỷ qua đã chứng minh điều đó. Trong tác phẩm Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ đã thể hiện đượcTư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng dân tộc. Dân tộc như là một chỉnh thể thống nhất giữa các tầng lớp trong mộtquốc gia. Tuy nhiên, do kinh tế lạc hậu, sự phân hoá giai cấp chưa triệt để, nên“cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây”. Còn có sựphân chia giai cấp, không có một tổ chức, một sự thống nhất nhất định: “Vềphía người lao động, đó là sự không giác ngộ, sự nhẫn nhục và vô tổ chức. Vềphía bọn chủ, không máy móc, ruộng đồng thuộc sở hữu của những địa chủhạng trung và hạng nhỏ và những mà những kẻ mà ở đó được coi là đại địa chủthì chỉ những tên lùn tịt bên cạnh những người trùng tên với họ ở châu Âu vàchâu Mỹ; không có tỷ phú người An Nam. Những tên trọc phú ở đó thì ở dây chỉlà những kẻ thực lợi khá giả thôi”.Mặc dù vậy chủ nghĩa yêu nước và tinh thândân tộc vẫn là một động lực to lớn của đất nuớc, “chính nó đã gây nên cuộc nổidậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những người culi biết phản đối, nó làmcho những người “nhà quê” phản đối ngầm trước thuế tạp dịch và thuế muối.Cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn luôn thúc đẩy các nhà buôn An Nam cạnh tranhvới người Pháp và người Trung Quốc; nó đã thúc dục thanh niên bãi kho, làmcho những nhà cách mạng trốn sang Nhật Bản và làm vua Duy Tân khởi nghĩanăm 1917”. Và chính “chiến tranh đã làm thay đổi chủ nghĩa dân tộc” Đối với cách mạng giải phóng dân tộc: Cuộc cách mạng giải phóng dântộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân và có tổ chức. Cuộc cách mạng giảiphóng dân tộc là cuộc cách mạng có “tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúngchứ không phải là một cuộc nổi loạn. Cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn bịtrong quần chúng,nổ ra trong thành phố theo kiểu các cuộc cách mạng ở châuÂu, chứ không phải nổ ra đột ngột ở biên giới Trung Quốc theo phương phápcủa những nhà cách mạng trước đây” Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạolực, tức là tiến hành đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang, khi điều kiện chophép thì thực hành đấu tranh ngoại giao. Phải tranh thủ sự ủng hộ của các nướctrên thế giới, đặc biệt là sự ủng hộ của nước Nga vì: “Các Xôviết sẽ cung cấpvũ khí, tiền bạc và các kĩ thuật viên, các binh sĩ, các thuỷ thủ bản xứ được đàotạo trước đó ở Mátxcơva. Ngoài ra nước Nga sẽ có một hạm đội khá mạnh ởThai Bình Dương, để ngăn cản sự can thiệp một vài cường quốc có thoả thuậnvới Pháp trong việc chống người bản xứ” Cách mạng giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô sảnmới dành được thắng lợi hoàn toàn và phải nổ ra cùng với cuộc cách mạng ởchính quốc. Người nói: “Cuộc khởi nghĩa phải trùng hợp với cách mạng vô sảnở Pháp” và “Sự nghiệp của người bản xứ gắn mật thiết với sự nghiệp vô sảntoàn thế giới mỗi khi chủ nghĩa cộng sản giành được chút ít thắng lợi trong mộtnước nào đó, nhất là trong một quốc gia đế quốc chủ nghĩa thì đó càng là thắnglợi cho cả người An ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tư tưởng Hồ Chí Minh đại đoàn kết dân tộc lý luận chính trị chủ nghĩa xã hội Đảng cộng sảnGợi ý tài liệu liên quan:
-
40 trang 430 0 0
-
Giáo trình Chính trị (Trình độ: Trung cấp nghề) - Trường Trung cấp nghề Củ Chi
84 trang 301 1 0 -
Nghiên cứu lý luận tôn giáo của Viện nghiên cứu tôn giáo trong 30 năm qua (1991-2021)
16 trang 300 0 0 -
112 trang 291 0 0
-
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (2019)
144 trang 270 7 0 -
20 trang 259 0 0
-
64 trang 242 0 0
-
128 trang 241 0 0
-
34 trang 235 0 0
-
9 trang 225 0 0