Bài thuyết trình: Tăng trưởng xấu
Số trang: 15
Loại file: pptx
Dung lượng: 345.68 KB
Lượt xem: 18
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nền kinh tế Việt Nam lựa chọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy tăng trưởng kinh tế mà Việt Nam xác định là tăng trưởng bền vững, tăng trưởng vì con người, vì một xã hội ngày càng công bằng hơn, dân chủ hơn, tăng trưởng gắn với bảo vệ môi trường. Nhằm giúp các bạn hiểu hơn về vấn đề này, mời các bạn cùng tham khảo bài thuyết trình "Tăng trưởng xấu" dưới đây.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài thuyết trình: Tăng trưởng xấu Chủ đề thảo luận: TĂNG TRƯỞNG XẤU Nhóm 2 – Lớp Địa lí Việt Nam 02 I. Đặt vấn đề: Tăng trưởng phản ánh sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một giai đoạn nhất định (thường là 1 năm). Đây là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan trọng hàng đầu, có liên quan mật thiết đến các biến số vĩ mô khác như việc làm, lạm phát, nghèo đói,… Tuy nhiên, nếu chỉ xem xét tăng trưởng kinh tế (TTKT) trên giác độ số lượng thu nhập tăng thêm thì chưa đủ. Thực tế cho thấy nhiều “loại” tăng trưởng không những không đem đến cho con người cuộc sống tốt đẹp hơn mà trái lại còn để lại những hậu quả không tốt mà các thế hệ tương lai phải gánh chịu. Nền kinh tế Việt Nam lựa chọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy tăng trưởng kinh tế mà Việt Nam xác định là tăng trưởng bền vững, tăng trưởng vì con người, vì một xã hội ngày càng công bằng hơn, dân chủ hơn, tăng trưởng gắn với bảo vệ môi trường. Điều đó cũng có nghĩa là tránh các kiểu tăng trưởng mà ngay từ năm 1996, Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) đã cảnh báo II. Nội dung: ThựcCác kiểu tế cho tăng thấy trưởng nhiều cầntrưởng loại tăng không những không tránh:đem đến cho con người cuộc sống tốt đẹp hơn mà trái lại còn để lại những hậu quả không tốt mà các thế hệ tương lai phải gánh chịu. Năm 1996, UNDP đã chỉ ra 5 loại tăng trưởng xấu để các quốc gia tham khảo, đó là: Đi vào chi tiết, kết quả, cũng như những vấn đề của Việt Nam. -> Tăng trưởng không việc làm Đó là tăng trưởng kinh tế song không mở rộng những cơ hội tạo thêm việc làm hoặc phải làm việc nhiều giờ và có thu nhập rất thấp với những công việc có năng suất lao động thấp trong nông nghiệp và trong khu vực không chính thức. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian qua đã làm cho tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm từ 6,9% năm 1998 xuống 6,4% năm 2000 và 5,6% năm 2004; làm cho tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn tăng từ 71,1% năm 1998 lên 74,2% năm 2000 và 79,4% năm 2004. Song việc chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp - xây dựng và dịch vụ còn chậm; nhiều công trình được xây dựng vẫn cần nhiều vốn hơn là lao động. Tỷ trọng đóng góp vào tốc độ tăng trưởng do yếu tố vốn đóng góp còn chiếm tới gần 60%, còn do yếu tố lao động chỉ chiếm khoảng 20% và do yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp chỉ chiếm trên 20%. Đi vào chi tiết, kết quả, cũng như những vấn đề của Việt Nam. -> Tăng trưởng không lương tâm Đó là tăng trưởng mà thành quả của nó chủ yếu đem lại lợi ích cho người giàu,còn người nghèo được hưởng ít, thậm chí số người nghèo còn tăng thêm, khoảng cách giàu nghèo gia tăng. Trong giai đoạn 1970 - 1985, GNP toàn cầu tăng 40%, nhưng số người nghèo tăng 17%. Trong giai đoạn 1965 - 1980, 200 triệu người có thu nhập trên đầu người giảm, thì đến giai đoạn 1980 - 1993, con số này là hơn 1 tỉ người. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã làm cho tỷ lệ nghèo giảm nhanh: tỷ lệ hộ nghèo lương thực - thực phẩm giảm từ 55% năm 1990 còn 16,5% năm 1995, 9,9% năm 2002 và 7,8% năm 2004; tỷ lệ nghèo phi lương thực - thực phẩm giảm từ 57% năm 1993 còn 37,4% năm 1998, 28,9% năm 2002 và 24,1% năm 2004. Tuy nhiên, chênh lệch giàu nghèo đã gia tăng. So sánh 20% số hộ có mức thu nhập cao nhất với 20% số hộ có mức thu nhập thấp nhất thì hệ số đã gia tăng từ 6,2 lần năm 1993 lên 7 lần năm 1995, 7,6 lần năm 1999 và 8,1 lần năm 2002. Nếu so sánh 10% số hộ có mức thu nhập cao nhất với 10% số hộ có mức thu nhập thấp nhất thì hệ số chênh lệch đã gia tăng từ 10,1 lần năm 1995 lên 10,6 lần năm 1996, 12 lần năm 1999, 12,5 lần năm 2002 và 13,5 lần năm 2004. Đây là cảnh báo cần thiết về 3 mặt: một mặt là chênh lệch chính của một bộ phận người giàu và tình trạng nghèo khó của một bộ phận người nghèo; mặt khác nữa là sự điều tiết của Nhà nước bằng nhiều biện pháp như thuế thu nhập, chính sách phân phối, chính sách xã hội Đi vào chi tiết, kết quả, cũng như những vấn đề của Việt Nam. -> Tăng trưởng không có tiếng nói Đó là tăng trưởng kinh tế không kèm theo việc mở rộng nền dân chủ hay là việc trao thêm quyền lực, chặn đứng tiếng nói khác và dập tắt những đòi hỏi được tham dự nhiều hơn về xã hội và kinh tế. Việt Nam đã thực hiện đổi mới kinh tế vĩ mô trên 4 mặt (chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng XHCN, chuyển từ hai thành phần sang nhiều thành phần, chuyển từ nền kinh tế đóng sang nền kinh tế mở, chuyển từ Nhà nước chỉ huy quản lý bằng mệnh lệnh sang Nhà nước pháp quyền quản lý chủ yếu bằng luật pháp); đổi mới trên lĩnh vực phân phối về vai trò của phân phối, về nguyên tắc phân phối, về phương tiện và đối tượng phân phối, về phương thức và công cụ phân phối. Thực chất là dân chủ hóa nền kinh tế. Từ Đại hội IX, Đảng ta đưa thêm mục tiêu dân chủ và mục tiêu tổng quát dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đi vào chi tiết, kết quả, cũng như những vấn đề của Việt Nam. -> Tăng trưởng không gốc rễ Là sự tăng trưởng đã khiến cho nền văn hóa của con người trở nên khô héo. Việt Nam đã gắn tăng trưởng kinh tế với phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, song sự phát triển văn hóa hiện đang chậm hơn về kinh tế cần được cảnh báo. Đi vào chi tiết, kết quả, cũng như những vấn đề của Việt Nam. -> Tăng trưởng không tương lai Là tăng trưởng mà thế hệ hiện nay phung phí những nguồn lực mà các thế hệ trong tương lai cần đến. Tăng trưởng kinh tế tràn lan và không được kiểm soát tại nhiều nước đã đổ chất thải vào các khu rừng, làm ô nhiễm s ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài thuyết trình: Tăng trưởng xấu Chủ đề thảo luận: TĂNG TRƯỞNG XẤU Nhóm 2 – Lớp Địa lí Việt Nam 02 I. Đặt vấn đề: Tăng trưởng phản ánh sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một giai đoạn nhất định (thường là 1 năm). Đây là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan trọng hàng đầu, có liên quan mật thiết đến các biến số vĩ mô khác như việc làm, lạm phát, nghèo đói,… Tuy nhiên, nếu chỉ xem xét tăng trưởng kinh tế (TTKT) trên giác độ số lượng thu nhập tăng thêm thì chưa đủ. Thực tế cho thấy nhiều “loại” tăng trưởng không những không đem đến cho con người cuộc sống tốt đẹp hơn mà trái lại còn để lại những hậu quả không tốt mà các thế hệ tương lai phải gánh chịu. Nền kinh tế Việt Nam lựa chọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy tăng trưởng kinh tế mà Việt Nam xác định là tăng trưởng bền vững, tăng trưởng vì con người, vì một xã hội ngày càng công bằng hơn, dân chủ hơn, tăng trưởng gắn với bảo vệ môi trường. Điều đó cũng có nghĩa là tránh các kiểu tăng trưởng mà ngay từ năm 1996, Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) đã cảnh báo II. Nội dung: ThựcCác kiểu tế cho tăng thấy trưởng nhiều cầntrưởng loại tăng không những không tránh:đem đến cho con người cuộc sống tốt đẹp hơn mà trái lại còn để lại những hậu quả không tốt mà các thế hệ tương lai phải gánh chịu. Năm 1996, UNDP đã chỉ ra 5 loại tăng trưởng xấu để các quốc gia tham khảo, đó là: Đi vào chi tiết, kết quả, cũng như những vấn đề của Việt Nam. -> Tăng trưởng không việc làm Đó là tăng trưởng kinh tế song không mở rộng những cơ hội tạo thêm việc làm hoặc phải làm việc nhiều giờ và có thu nhập rất thấp với những công việc có năng suất lao động thấp trong nông nghiệp và trong khu vực không chính thức. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian qua đã làm cho tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm từ 6,9% năm 1998 xuống 6,4% năm 2000 và 5,6% năm 2004; làm cho tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn tăng từ 71,1% năm 1998 lên 74,2% năm 2000 và 79,4% năm 2004. Song việc chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp - xây dựng và dịch vụ còn chậm; nhiều công trình được xây dựng vẫn cần nhiều vốn hơn là lao động. Tỷ trọng đóng góp vào tốc độ tăng trưởng do yếu tố vốn đóng góp còn chiếm tới gần 60%, còn do yếu tố lao động chỉ chiếm khoảng 20% và do yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp chỉ chiếm trên 20%. Đi vào chi tiết, kết quả, cũng như những vấn đề của Việt Nam. -> Tăng trưởng không lương tâm Đó là tăng trưởng mà thành quả của nó chủ yếu đem lại lợi ích cho người giàu,còn người nghèo được hưởng ít, thậm chí số người nghèo còn tăng thêm, khoảng cách giàu nghèo gia tăng. Trong giai đoạn 1970 - 1985, GNP toàn cầu tăng 40%, nhưng số người nghèo tăng 17%. Trong giai đoạn 1965 - 1980, 200 triệu người có thu nhập trên đầu người giảm, thì đến giai đoạn 1980 - 1993, con số này là hơn 1 tỉ người. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã làm cho tỷ lệ nghèo giảm nhanh: tỷ lệ hộ nghèo lương thực - thực phẩm giảm từ 55% năm 1990 còn 16,5% năm 1995, 9,9% năm 2002 và 7,8% năm 2004; tỷ lệ nghèo phi lương thực - thực phẩm giảm từ 57% năm 1993 còn 37,4% năm 1998, 28,9% năm 2002 và 24,1% năm 2004. Tuy nhiên, chênh lệch giàu nghèo đã gia tăng. So sánh 20% số hộ có mức thu nhập cao nhất với 20% số hộ có mức thu nhập thấp nhất thì hệ số đã gia tăng từ 6,2 lần năm 1993 lên 7 lần năm 1995, 7,6 lần năm 1999 và 8,1 lần năm 2002. Nếu so sánh 10% số hộ có mức thu nhập cao nhất với 10% số hộ có mức thu nhập thấp nhất thì hệ số chênh lệch đã gia tăng từ 10,1 lần năm 1995 lên 10,6 lần năm 1996, 12 lần năm 1999, 12,5 lần năm 2002 và 13,5 lần năm 2004. Đây là cảnh báo cần thiết về 3 mặt: một mặt là chênh lệch chính của một bộ phận người giàu và tình trạng nghèo khó của một bộ phận người nghèo; mặt khác nữa là sự điều tiết của Nhà nước bằng nhiều biện pháp như thuế thu nhập, chính sách phân phối, chính sách xã hội Đi vào chi tiết, kết quả, cũng như những vấn đề của Việt Nam. -> Tăng trưởng không có tiếng nói Đó là tăng trưởng kinh tế không kèm theo việc mở rộng nền dân chủ hay là việc trao thêm quyền lực, chặn đứng tiếng nói khác và dập tắt những đòi hỏi được tham dự nhiều hơn về xã hội và kinh tế. Việt Nam đã thực hiện đổi mới kinh tế vĩ mô trên 4 mặt (chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng XHCN, chuyển từ hai thành phần sang nhiều thành phần, chuyển từ nền kinh tế đóng sang nền kinh tế mở, chuyển từ Nhà nước chỉ huy quản lý bằng mệnh lệnh sang Nhà nước pháp quyền quản lý chủ yếu bằng luật pháp); đổi mới trên lĩnh vực phân phối về vai trò của phân phối, về nguyên tắc phân phối, về phương tiện và đối tượng phân phối, về phương thức và công cụ phân phối. Thực chất là dân chủ hóa nền kinh tế. Từ Đại hội IX, Đảng ta đưa thêm mục tiêu dân chủ và mục tiêu tổng quát dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đi vào chi tiết, kết quả, cũng như những vấn đề của Việt Nam. -> Tăng trưởng không gốc rễ Là sự tăng trưởng đã khiến cho nền văn hóa của con người trở nên khô héo. Việt Nam đã gắn tăng trưởng kinh tế với phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, song sự phát triển văn hóa hiện đang chậm hơn về kinh tế cần được cảnh báo. Đi vào chi tiết, kết quả, cũng như những vấn đề của Việt Nam. -> Tăng trưởng không tương lai Là tăng trưởng mà thế hệ hiện nay phung phí những nguồn lực mà các thế hệ trong tương lai cần đến. Tăng trưởng kinh tế tràn lan và không được kiểm soát tại nhiều nước đã đổ chất thải vào các khu rừng, làm ô nhiễm s ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Bài thuyết trình Tăng trưởng xấu Kinh tế Việt Nam Tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng bền vững Tăng trưởng không gốc rễGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Kinh tế học vĩ mô: Phần 1 - N. Gregory Mankiw, Vũ Đình Bách
117 trang 696 3 0 -
18 trang 627 0 0
-
Bài thuyết trình Tâm lý học: Cảm giác và tri giác - Nhóm 3
29 trang 279 0 0 -
20 trang 239 0 0
-
38 trang 237 0 0
-
Bài thuyết trình: Hệ thống túi khí (Air bag)
35 trang 236 0 0 -
Nguồn lực tài chính phục vụ phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở Việt Nam
3 trang 232 0 0 -
Một vài khía cạnh của phân tích dữ liệu lớn trong kinh tế
10 trang 222 0 0 -
Hai mô hình phát triển và sự đổi mới kinh tế thông qua thực tiễn phát triển nông nghiệp ở Việt Nam
348 trang 204 0 0 -
46 trang 201 0 0