Bài tiểu luận: Độc chất trong sản xuất
Số trang: 11
Loại file: doc
Dung lượng: 235.50 KB
Lượt xem: 23
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Độc chất học là môn khoa học nghiên cứu quy luật tác dụng của chất độc đối với cơ thể và đề ra những biện pháp dự phòng, điều trị và khắc phục hậu quả của nhiễm độc. Bài tiểu luận: Độc chất trong sản xuất. Mời các bạn cùng tìm hiểu và tham khảo nội dung thông tin tài liệu.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài tiểu luận: Độc chất trong sản xuất ĐỘC CHẤT TRONG SẢN XUẤT 1. Mở đầu Ngay từ khi con người biết sử dụng chất độc vào sinh hoạt và sản xuất cũng như khi chất độc được dùng vào mục đích quân sự, độc học đã ra đời và phát triển để đáp ứng yêu cầu dự phòng và điều trị các trường hợp nhiễm độc. Ngành độc chất học phát triển đặc biệt nhanh vào những năm của thế kỷ hai mươi. Ngày nay, chất hóa học ngày càng được ứng dụng vào việc phục vụ đời sống con người thì vấn đề độc chất học nói chung càng phải chú trọng phát triển. Độc chất học là môn khoa học nghiên cứu quy luật tác dụng của chất độc đối với cơ thể và đề ra những biện pháp dự phòng, điều trị và khắc phục hậu quả của nhiễm độc. Ngày nay, người ta biết có nhiều loại chất với liều lượng nhất định là thuốc điều trị nhưng với liều cao là chất độc. Chất độc là chất với liều rất nhỏ trong những điều kiện nhất định có thể gây nên những rối loạn sinh lý, sinh hóa trong cơ thể, thậm chí gây nhiễm độc có thể dẫn tới tử vong. Như vậy giới hạn giữa chất độc và chất không độc được phân biệt bởi liều lượng. Có tác giả đề nghị giới hạn giữa chất độc và không độc là liều 100 mg/kg, nghĩa là chất nào có khả năng gây nhiễm độc từ liều dưới 100 mg/kg được coi là chất độc. Nhiễm độc là khi chất độc xâm nhập vào cơ thể với một liều lượng nhất định gây ảnh hưởng tới các hệ thống sinh học của cơ thể. Chất độc có trong môi trường lao động và liên quan chặt chẽ với một nghề nghiệp nào đó là chất độc nghề nghiệp, bệnh do chất độc nghề nghiệp gây ra là nhiễm độc nghề nghiệp. 2. Dịch tễ học nhiễm độc - Vụ dịch sương mù ở Luân Đôn năm 1952 là vụ dịch điển hình được mô tả trong lịch sử, Đó là do hàm lượng SO2 trong không khí tăng cao do khí thải của nhà máy. - Các nhà máy xí nghiệp hàng năm có các vụ nhiễm độc khí Co ,Pb, Hg, AS... - Các vụ nhiễm độc hóa chất bảo vệ thực vật ngày càng nhiều, số tử vong cũng tăng cao. - Vụ dịch xuất huyết ở trẻ em do sử dụng phấn rôm có chứa chất chống đông tại Thành phố Hồ Chí Minh được phát hiện đo thiết kế nghiên cứu ca bệnh đối chứng. - Hàng năm có khoảng 200.000 chất hóa học được phát hiện ra và có khoảng 20.000 chất được đưa vào sản xuất, gây tăng quá trình nhiễm độc. 3. Nguyên nhân gây nhiễm độc trong sản xuất 3.1.Do chủ quan - Thiếu hiểu biết về chất độc - Không tuân thủ quy trình quản lý và sử dụng chất độc - Không sử dụng trang thiết bị phòng độc Sức khỏe người lao động không tốt, người lao động mắc các bệnh làm cơ thể tăng cảm nhiễm với chất độc. 3.2. Do khách quan - Công nghệ sản xuất cũ kỹ, lạc hậu gây phát tán chất độc, gây ô nhiễm môi trường lao động. - Nhà xưởng kém thông khí - Môi trường làm việc nóng, ẩm - Tính chất lý học của chất độc: +Khả năng bay hơi càng thấp càng có tính độc cao. + Độ hoà tan trong nước và trong các dung môi hữu cơ, hệ số hoà tan cao thì độc càng mạnh. Tính chất hóa học của chất độc quyết định khả năng tác dụng độc, đặc biệt là cấu trúc hóa học của chất độc. 4. Sự xâm nhập, chuyển hóa và đào thải chết độc trong cơ thể 4.1. Sự xâm nhập 4.1.1Đường tiêu hóa a) Qua miệng: một số chất độc xâm nhập vào cơ thể qua ăn uống có thể được hấp thu ngay tại niêm mạc miệng. Các chất độc hấp thu được qua niêm mạc miệng rất nguy hiểm bởi chúng không bị ảnh hưởng của dịch dạ dày và không được qua gan khử độc trước khi đi vào tuần hoàn chung. b) Qua dạ dày: nhiều chất hóa học có tính acid yếu được hấp thu nhanh chóng qua dạ dày. c) Ruột non: tốc độ hấp thu các chất khuếch tán qua thành ruột cũng được quyết định bởi hằng số phân ly và tính tan được trong lipid của chúng. 4.1.2. Đường hô hấp Hô hấp là đường vào chính của nhiều chất độc công nghiệp. Chất độc hít phải vào phổi có thể đi vào tuần hoàn chung ngay. Diện tích các phế nang được ước lượng là khoảng 80m2. Trong phế nang, không khí chỉ được tách ra khỏi máu mao mạch qua một vách có chiều dày từ 1/10 đến 1/20 cm. Chính vì vậy nhiều chất độc ở dạng hơi, khí dung dễ dàng qua các vách phế nang để vào máu. Mức tiếp xúc của cơ thể với chất độc (T) sẽ phụ thuộc vào nồng độ (c) của chất độc trong không khí môi trường và thời gian tiếp xúc (t), được tính theo công thức: T = c. t Các chất hấp thu theo đường phổi sẽ theo hệ thống tuần hoàn tới thẳng các cơ quan khác nhau (não, thận) mà không qua gan như các chất vào bằng đường tiêu hóa. 4.1.3. Đường da Việc vận chuyển qua da có thể được thực hiện bằng hai đường chính: đường qua biểu bì và đường qua nang lông, tuyến bã. Vận chuyển qua biểu bì thì không nhanh bằng đường qua nang lông, tuyến bã nhưng vì diện tích biểu bì lớn hơn, nên ở da sự hấp thu chủ yếu diễn ra qua đường biểu bì. Sự vận chuyển qua biểu bì thực hiện chủ yếu bằng khuếch tán thụ động và hàng rào chính đối với khuếch tán là lớp sừng. 4.2. Sự hấp thu của chất độc vào máu Chất độc hấp thu vào máu với tốc độ và số lượng khác nhau phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: tính chất vật lý và hóa học của chất độc (độ hoà tan trong nước hay trong lipid, khả năng liên kết với các cấu trúc đặc hiệu và không đặc hiệu...), tình trạng cơ thể (tuổi, giới, thể tạng, màng tế bào, thành mạch, tuần hoàn tại chỗ...), các yếu tố bên ngoài (có mặt của các yếu tố làm tăng hấp thu, các chất hoà tan, điều kiện tại chỗ...). Vì vậy có chất độc xâm nhập nhưng sự hấp thu vào máu không hoàn toàn 4.3. Sự phân bố của chất độc trong cơ thể 4.3.1. Sự phân bố Sau khi hấp thu vào máu và bạch mạch, chất độc được phân bố đến cơ quan tổ chức, tế bào bằng cơ chế đối lưu hoặc khuếch tán (do chênh lệch về nồng độ). Quá trình phân bố kết thúc khi chất độc tập kết tại vị trí tấn công đặc hiệu. Qu ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài tiểu luận: Độc chất trong sản xuất ĐỘC CHẤT TRONG SẢN XUẤT 1. Mở đầu Ngay từ khi con người biết sử dụng chất độc vào sinh hoạt và sản xuất cũng như khi chất độc được dùng vào mục đích quân sự, độc học đã ra đời và phát triển để đáp ứng yêu cầu dự phòng và điều trị các trường hợp nhiễm độc. Ngành độc chất học phát triển đặc biệt nhanh vào những năm của thế kỷ hai mươi. Ngày nay, chất hóa học ngày càng được ứng dụng vào việc phục vụ đời sống con người thì vấn đề độc chất học nói chung càng phải chú trọng phát triển. Độc chất học là môn khoa học nghiên cứu quy luật tác dụng của chất độc đối với cơ thể và đề ra những biện pháp dự phòng, điều trị và khắc phục hậu quả của nhiễm độc. Ngày nay, người ta biết có nhiều loại chất với liều lượng nhất định là thuốc điều trị nhưng với liều cao là chất độc. Chất độc là chất với liều rất nhỏ trong những điều kiện nhất định có thể gây nên những rối loạn sinh lý, sinh hóa trong cơ thể, thậm chí gây nhiễm độc có thể dẫn tới tử vong. Như vậy giới hạn giữa chất độc và chất không độc được phân biệt bởi liều lượng. Có tác giả đề nghị giới hạn giữa chất độc và không độc là liều 100 mg/kg, nghĩa là chất nào có khả năng gây nhiễm độc từ liều dưới 100 mg/kg được coi là chất độc. Nhiễm độc là khi chất độc xâm nhập vào cơ thể với một liều lượng nhất định gây ảnh hưởng tới các hệ thống sinh học của cơ thể. Chất độc có trong môi trường lao động và liên quan chặt chẽ với một nghề nghiệp nào đó là chất độc nghề nghiệp, bệnh do chất độc nghề nghiệp gây ra là nhiễm độc nghề nghiệp. 2. Dịch tễ học nhiễm độc - Vụ dịch sương mù ở Luân Đôn năm 1952 là vụ dịch điển hình được mô tả trong lịch sử, Đó là do hàm lượng SO2 trong không khí tăng cao do khí thải của nhà máy. - Các nhà máy xí nghiệp hàng năm có các vụ nhiễm độc khí Co ,Pb, Hg, AS... - Các vụ nhiễm độc hóa chất bảo vệ thực vật ngày càng nhiều, số tử vong cũng tăng cao. - Vụ dịch xuất huyết ở trẻ em do sử dụng phấn rôm có chứa chất chống đông tại Thành phố Hồ Chí Minh được phát hiện đo thiết kế nghiên cứu ca bệnh đối chứng. - Hàng năm có khoảng 200.000 chất hóa học được phát hiện ra và có khoảng 20.000 chất được đưa vào sản xuất, gây tăng quá trình nhiễm độc. 3. Nguyên nhân gây nhiễm độc trong sản xuất 3.1.Do chủ quan - Thiếu hiểu biết về chất độc - Không tuân thủ quy trình quản lý và sử dụng chất độc - Không sử dụng trang thiết bị phòng độc Sức khỏe người lao động không tốt, người lao động mắc các bệnh làm cơ thể tăng cảm nhiễm với chất độc. 3.2. Do khách quan - Công nghệ sản xuất cũ kỹ, lạc hậu gây phát tán chất độc, gây ô nhiễm môi trường lao động. - Nhà xưởng kém thông khí - Môi trường làm việc nóng, ẩm - Tính chất lý học của chất độc: +Khả năng bay hơi càng thấp càng có tính độc cao. + Độ hoà tan trong nước và trong các dung môi hữu cơ, hệ số hoà tan cao thì độc càng mạnh. Tính chất hóa học của chất độc quyết định khả năng tác dụng độc, đặc biệt là cấu trúc hóa học của chất độc. 4. Sự xâm nhập, chuyển hóa và đào thải chết độc trong cơ thể 4.1. Sự xâm nhập 4.1.1Đường tiêu hóa a) Qua miệng: một số chất độc xâm nhập vào cơ thể qua ăn uống có thể được hấp thu ngay tại niêm mạc miệng. Các chất độc hấp thu được qua niêm mạc miệng rất nguy hiểm bởi chúng không bị ảnh hưởng của dịch dạ dày và không được qua gan khử độc trước khi đi vào tuần hoàn chung. b) Qua dạ dày: nhiều chất hóa học có tính acid yếu được hấp thu nhanh chóng qua dạ dày. c) Ruột non: tốc độ hấp thu các chất khuếch tán qua thành ruột cũng được quyết định bởi hằng số phân ly và tính tan được trong lipid của chúng. 4.1.2. Đường hô hấp Hô hấp là đường vào chính của nhiều chất độc công nghiệp. Chất độc hít phải vào phổi có thể đi vào tuần hoàn chung ngay. Diện tích các phế nang được ước lượng là khoảng 80m2. Trong phế nang, không khí chỉ được tách ra khỏi máu mao mạch qua một vách có chiều dày từ 1/10 đến 1/20 cm. Chính vì vậy nhiều chất độc ở dạng hơi, khí dung dễ dàng qua các vách phế nang để vào máu. Mức tiếp xúc của cơ thể với chất độc (T) sẽ phụ thuộc vào nồng độ (c) của chất độc trong không khí môi trường và thời gian tiếp xúc (t), được tính theo công thức: T = c. t Các chất hấp thu theo đường phổi sẽ theo hệ thống tuần hoàn tới thẳng các cơ quan khác nhau (não, thận) mà không qua gan như các chất vào bằng đường tiêu hóa. 4.1.3. Đường da Việc vận chuyển qua da có thể được thực hiện bằng hai đường chính: đường qua biểu bì và đường qua nang lông, tuyến bã. Vận chuyển qua biểu bì thì không nhanh bằng đường qua nang lông, tuyến bã nhưng vì diện tích biểu bì lớn hơn, nên ở da sự hấp thu chủ yếu diễn ra qua đường biểu bì. Sự vận chuyển qua biểu bì thực hiện chủ yếu bằng khuếch tán thụ động và hàng rào chính đối với khuếch tán là lớp sừng. 4.2. Sự hấp thu của chất độc vào máu Chất độc hấp thu vào máu với tốc độ và số lượng khác nhau phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: tính chất vật lý và hóa học của chất độc (độ hoà tan trong nước hay trong lipid, khả năng liên kết với các cấu trúc đặc hiệu và không đặc hiệu...), tình trạng cơ thể (tuổi, giới, thể tạng, màng tế bào, thành mạch, tuần hoàn tại chỗ...), các yếu tố bên ngoài (có mặt của các yếu tố làm tăng hấp thu, các chất hoà tan, điều kiện tại chỗ...). Vì vậy có chất độc xâm nhập nhưng sự hấp thu vào máu không hoàn toàn 4.3. Sự phân bố của chất độc trong cơ thể 4.3.1. Sự phân bố Sau khi hấp thu vào máu và bạch mạch, chất độc được phân bố đến cơ quan tổ chức, tế bào bằng cơ chế đối lưu hoặc khuếch tán (do chênh lệch về nồng độ). Quá trình phân bố kết thúc khi chất độc tập kết tại vị trí tấn công đặc hiệu. Qu ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Bài tiểu luận Độc chất trong sản xuất Độc chất học Hậu quả của nhiễm độc Dịch tễ học nhiễm độc Nguyên nhân gây nhiễm độc trong sản xuấtGợi ý tài liệu liên quan:
-
Bài tiểu luận: Đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội của Tập đoàn TH True Milk
28 trang 821 2 0 -
Tiểu luận Quản trị chiến lược: Phân tích chiến lược kinh doanh của công ty Biti's
22 trang 549 0 0 -
Bài tiểu luận kết thúc học phần: Phân tích hoạt động kinh doanh
34 trang 379 0 0 -
Bài tiêu luận: Xây dựng tài liệu kỹ thuật cho mã hàng áo Jacket 2 lớp và áo Vest nữ 2 lớp
79 trang 326 0 0 -
Tiểu luận: Sáng tác thiếu nhi của Tô Hoài và tính cách Dế Mèn qua truyện Dế Mèn phiêu lưu ký
17 trang 283 0 0 -
Tiểu luận: Quá trình công nghệ sản xuất xúc xích heo tiệt trùng
86 trang 210 0 0 -
Bài tiểu luận kết thúc học phần: Quản lý dự án đầu tư
22 trang 208 0 0 -
30 trang 176 1 0
-
24 trang 176 0 0
-
Bài tiểu luận: Tội phạm và cấu thành tội phạm
15 trang 170 0 0