Danh mục

bài tiểu luận phòng chống trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ

Số trang: 10      Loại file: docx      Dung lượng: 186.00 KB      Lượt xem: 31      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (10 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

I. Khái niệm, nguyên nhân, hình thức và một số hậu quả của trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ 1. Khái niệm : Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lời, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm Theo quy định tại Thông tư 31/2004/TT-BTC của Bộ Tài...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
bài tiểu luận phòng chống trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ Bài tiểu luận Phòng chống trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ 1 GVHD : TRẦN NGUYÊN ĐÁN PHÒNG CHỐNG TRỤC LỢI BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ I. Khái niệm, nguyên nhân, hình thức và một số hậu quả của trục lợi bảo hiểm phi nhân thọ 1. Khái niệm : Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lời, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm Theo quy định tại Thông tư 31/2004/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 118 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm thì: “Trục lợi bảo hiểm là hành vi cố ý lừa dối của tổ chức, cá nhân nhằm thu lợi bất chính khi tham gia bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm và giải quyết khiếu nại bảo hiểm” Như vậy, nói đến trục lợi bảo hiểm là phải nói đến hành vi của tổ chức, cá nhân được thực hiện một cách cố ý nhằm thu lợi bất chính. Nhận dạng hành vi trục lợi bảo hiểm phải chú trọng đến việc tổ chức, cá nhân tham gia vào quan hệ bảo hiểm (bao gồm bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm, giải quyết khiếu nại bảo hiểm) nhằm thu lợi bất chính cho mình. Tổ chức, cá nhân được đề cập trong khái niệm trục lợi bảo hiểm trên đây có thể là bên mua bảo hiểm, bên được bảo hiểm hoặc doanh nghiệp bảo hiểm, thậm chí có thể là hành vi gian lận trong bảo hiểm của đại lý bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Cho dù là tổ chức, cá nhân nào đi chăng nữa, nhưng nếu muốn thực hiện được hành vi trục lợi bảo hiểm, thì các chủ thể này cũng phải tham gia vào quan hệ kinh doanh bảo hiểm. Dưới đây là biểu đồ số liệu thống kê của Liên Hiệp Phòng Chống Trục Lợi Bảo hiểm 2 GVHD : TRẦN NGUYÊN ĐÁN Thống kê số vụ gian lận bảo hiểm 780 760 740 720 700 680 660 640 620 2010 2009 2008 Biểu đồ số vụ bắt giữ do gian lận bảo hiểm 3 GVHD : TRẦN NGUYÊN ĐÁN 2. Nguyên nhân dẫn đến trục lợi bảo hiểm: Ngoài nguyên nhân chủ quan liên quan đến quyền lợi thì ngoài ra còn có một số nguyên nhân khách quan sau: Theo quy định pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin trong quan hệ thương mại nói chung đó là, tất cả các giao dịch kinh doanh cần thực hiện trên cơ sở tin cậy lẫn nhau. Trong thực tế, điều đó có nghĩa là các bên khi tham gia vào các hoạt động kinh doanh không được phép có bất kỳ hành vi gian lận hay mưu toan lừa đảo nào. Điều này không có nghĩa rằng, người bán phải có nghĩa vụ chỉ ra các khiếm khuyết đối với sản phẩm mà họ bán ra, tuy nhiên, khi giới thiệu, thông báo hoặc trả lời câu hỏi, người bán hàng phải đưa ra những câu trả lời trung thực. Chính vì vậy, những khiếm khuyết của sản phẩm, cũng như thông tin trong hợp đồng bảo hiểm sẽ không chính xác, dẫn đến việc bồi thường hợp đồng cũng không chính xác với thực tế. Điều khoản trong hợp đồng bảo hiểm cũng như từ ngữ sử dụng trong hợp đồng bảo hiểm mang tính kỷ thuật và chuyên ngành bảo hiểm ,nên người mua bảo hiể m thường không hiểu , nhưng vì không muốn thể hiện sự thiếu hiểu biết của mình thì bên mua thường không hỏi kĩ, chính vì điều này khi xảy ra tranh chấp hợp đồng thì bên mua thường bị thua thiệt. Sự nghiêm minh của pháp luật cũng là điều đáng nói. Với nguyên tắc bảo hiểm dưới giá thì Điều 46 như sau: Số tiền bồi thường mà doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho người được bảo hiểm được xác định trên cơ sở giá thị trường của tài sản tại thời điểm, nơi xảy ra tổn thất và mức độ thiệt hại thực tế và số tiền bồi thường mà doanh nghiệp bảo hiểm trả cho người được bảo hiểm không vượt quá số tiền bảo hiểm.Nhưng lại rất khó xác định giá thị trường vì tài sản thường đã qua sử dụng, công tác giám định nhiều khi cũng mang tính chủ quan, hơn nữa cũng trong điều này thì luật cũng quy định là trừ trường hợp có thỏa thuận khác, điều này vô hình trung đã làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật, và nếu nhân viên công ty bảo hiểm và người mua bảo hiểm cấu kết để trục lợi thì trong trường hợp này sự nghiêm minh của pháp luật không có điều kiên để trừng trị. Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác, chẳng hạn chi phí cho việc phòng chống trục lợi bảo hiểm thường quá lớn so với khả năng cân đối tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm .Việc so sánh tổn thất do việc trục lợi bảo hiểm gây ra và chi phí cho việc phòng chống là cơ sở cho việc quyết định có nên chi tiền ra chống lại việc trục lợi bảo hiểm hay không. Không một doanh nghiệp kinh doanh vì lợi nhuận nào mà làm một việc mà biết chắc mình sẽ tổn thất hơn. Rõ ràng đây cũng 4 GVHD : TRẦN NGUYÊN ĐÁN là một nguyên nhân chính yếu dẫn đến việc không mặn mà lắm cho việc phòng chống trục lợi bảo hiểm. 3. Các hình thức trục lợi bảo hiểm phổ biến a. Khai tăng trị giá tổn thất Hành vi này thường được thực hiện bằng cách lợi dụng tổn thất xảy ra để làm hư hỏng thêm tài sản được bảo hiểm nhằm được trả tiền bồi thường cao hơn, hoặc làm hư hỏng toàn bộ tài sản đã được bảo hiểm để được bồi thường tài sản có trị giá lớn hơn. b. Đã xảy ra tổn thất mới đi mua bảo hiểm Hình thức trục lợi bảo hiểm này không phải là hiếm. Đối tượng bảo hiểm (máy móc, phương tiện vận chuyển…) đã bị tổn thất tức là sự kiện bảo hiểm đã xảy ra, bên mua bảo hiểm mới đi giao kết hợp đồng bảo hiểm để được bồi thường hoặc được trả tiền bảo hiểm. c. Bảo hiểm trùng Bảo hiểm trùng là việc bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm với hai doanh nghiệp bảo hiểm trở lên để bảo hiểm cho cùng một đối tượng, với cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm. Trong trường hợp này , theo Luật Kinh doanh bảo hiể m th ...

Tài liệu được xem nhiều: