Danh mục

Bài tiểu luận: Vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta - thực trạng và giải pháp

Số trang: 26      Loại file: doc      Dung lượng: 185.50 KB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí tải xuống: 26,000 VND Tải xuống file đầy đủ (26 trang) 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài tiểu luận: Vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta - thực trạng và giải pháp giới thiệu về một số vấn đề thực trạng và những giải pháp chủ yếu để giải quyết vấn đề dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài tiểu luận: Vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta - thực trạng và giải pháp   VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ở NƯỚC TA - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Nước Việt Nam là một quốc gia bao gồm nhiều dân tộc, cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, hun đúc, tạo nên truyền thống đấu tranh anh dũng để dựng nước và giữ nước, xây dựng một nền văn hoá đa dân tộc .trong một quốc gia. Đó là nền văn hiến Việt Nam Bài này giới thiệu một số vấn đề về thực trạng và những giải pháp chủ yếu để giải quyết vấn đề dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta .hiện nay I. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ DÂN TỘC Ở NƯỚC TA Một số khái niệm về thuật ngữ dân tộc .1 :Trên thế giới hiện nay người ta thường dùng các thuật ngữ Dân tộc bản địa (Thổ dân, Dân bản xứ), Dân tộc thiểu số bản địa, bộ lạc, bộ tộc, sắc tộc, tộc người, dân tộc thiểu số, dân tộc ít người... Sự tồn tịa nhiều thuật ngữ đó, do những nguyên nhân gắn liền với sự phát triển của các dân tộc trên thế giới và sự xáo trộn của mỗi nước qua các thời kỳ biến thiên lịch sử; như nước Mỹ, trước kia là nơi sinh sống của các bộ lạc người Anh Điêng, bị người Châu Âu xân nhập vào thế kỷ XV, XVI, đến ngày 14/7/1776, 13 bang thuộc địa của Anh đã thống nhất lại thành hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Do đó ở nước Mỹ, người da trắng chiếm hơn 80%, còn các nhóm người khác đã sinh sống ở đây từ trước, họ gọi là dân bản địa (thổ dân, dân bản xứ); Bộ tộc là thuật ngữ, chỉ sự phân biệt màu da hoặc sắc thái văn hoá hoặc để chỉ dân tộc thiểu số nói chung; Dân tộc ít người hoặc cộng đồng người này, cộng đồng người kia là ám chỉ người có nguồn gốc từ nhiều nước đến nhưng số lượng ít hơn so với dân tộc chủ thể của nước đó; dân tộc thiểu số là thuật ngữ mà Trung Quốc sử dụng trong mối quan hệ giữa dân tộc thiểu số và người Hán. Những khái niệm trên .không đơn giản chỉ là học thuật mà là vấn đề có nội dung chính trị của nó Ở nước ta dùng thuật ngữ dân tộc đa số và các dân tộc thiểu số. Dân tộc Việt Nam hoặc cộng đồng các dân tộc Việt Nam được dùng để chỉ tất cả các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam, có quốc tịch Việt Nam, không phân biệt nguồn gốc. Khái niệm này đồng nghĩa với quốc gia đa dân tộc hay còn gọi là quốc gia - dân tộc. Thuật ngữ dân tộc ở nước ta đã được sử dụng ngay từ khi .(Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam Chúng ta không thừa nhận có dân bản xứ, thổ dân, vì tất cả các dân tộc của nước ta đều là những cư dân, là chủ nhân của đất nước Việt Nam, cũng không .công nhận có bộ tộc, bộ lạc hoặc tộc người Hiện nay chúng ta đang sử dụng thuật ngữ dân tộc đa số và dân tộc thiểu số, :vậy nên hiểu thống nhất là Dân tộc đa số là dân tộc có số người đông nhất trong cộng đồng các dân tộc - Việt Nam, tức là dân tộc Kinh (Việt), dùng thuật ngữ này là nói trên phạm vi cả .nước chứ không là nói trên địa bàn vùng hoặc địa phương nào đó Dân tộc thiểu số, thuật ngữ này không đồng nghĩa với dân tộc chậm phát triển, - càng không phải là dân tộc lạc hậu, khái niệm đó là chỉ những dân tộc có số người ít hơn so với dân tộc đa số. Trong đó kể cả dân tộc Hoa, còn người Hoa .không có quốc tịch Việt Nam là Hoa Kiều Thành phần dân tộc và tộc danh .2 Về thành phần dân tộc: Trên thế giới, do thành tựu nghiên cứu và nhận thức về - dân tộc mà mỗi nước có sự công nhận danh mục thành phần dân tộc ở nước mình, vì thế đại bộ phận các nước về cơ cấu dân tộc, quan hệ dân tộc cũng rất phức tạp. Theo một số tư liệu năm 1996 cho biết: trong 166 nước thì 1/3 số nước này tương đối đồng nhất về dân tộc, nhưng dân tộc đông nhất cũng chỉ chiếm trên 90% dân số nước đó như Nhật Bản, Triều Tiên, Ixraen, Ailen..., 1/2 số nước dân tộc đa số (chủ thể) chưa chiếm đến 70% số dân nước đó, 1/4 số nước là khoảng 50%, cá biệt có dân tộc là thiểu số của nước này nhưng lại là đa số của nước kia; hoặc là đa số của nước này cũng là đa số của nước kia như .người da trắng ở Anh với người da trắng ở Úc và một số nước khác :Ở Việt Nam, việc xác định thành phần dân tộc căn cứ theo 3 tiêu chuẩn Ý thức tự giác dân tộc, tức là ý thức về sự thống nhất của các thành phần + .trong cộng đồng người thể hiện bằng một tên gọi chung .Ngôn ngữ + .Văn hoá + Theo kết quả nghiên cứu rất công phu và trong nhiều năm của các nhà khoa học, sau khi đã có sự thống nhất giữa Uỷ ban khoa học xã hội Uỷ ban dân tộc của Chính phủ, năm 1979, Chính phủ đã uỷ nhiệm Tổng cục thống kê lần đầu tiên công bố danh mục dân tộc ở nước ta để phục vụ tổng điều tra dân số. Theo đó, đến thời điểm 1979 nước ta có 54 dân tộc. Việc xác định 54 dân tộc ở thời điểm đó là có cơ sở khoa học và pháp lý. Tuy nhiên về thành phần dân tộc hiện nay, cũng còn ý kiến cho rằng qui định như ttrên có rộng quá không? Hay xếp một số nhóm (tộc người) vào một dân tộc có đúng không? Hoặc có ý kiến đề nghị công nhận thêm dân tộc... do đó chúng ta cần phải tiếp tục nghiên cứu trên .cơ sở khoa học và phù hợp với nguyện vọng của đồng bào dân tộc Về tộc danh: Là tên gọi của dân tộc. Sau khi công bố danh mục thành phần dân - tộc thì tên gọi của các dân tộc được xác định một cách rõ ràng. Đồng bào các dân tộc rất phấn khởi và tự hào từ nay đã được gọi theo đúng tên gọi của chính dân tộc mình. Khác với trước đây, dưới thời Pháp thuộc bọn thống trị đã dùng những tên gọi khinh miệt chia rẽ các dân tộc như: Thổ (Tày), Mán (Dao), Mèo (Mông), Mọi (chỉ chung một số dân tộc ở miền núi)... tuy nhiên về tên dân tộc trong thời kỳ ban hành trước đây không ghi bằng tiếng phổ thông mà ghi theo giọng nói nên khi đọc có dân tộc đã có người đọc sai một ly đi một dặm như HMông đáng lẽ phát âm gần giống như từ Mông của tiến g Việt, lại đọc chệnh đi .là Hơ Mông là sai hoàn toàn :Về dân số .3 Các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay có gần 11 triệu người, chiếm khoảng - :14% dân số chung của cả nước Năm dân tộc là Tày, Thái, Khơme, Mường, Hoa, mỗi dân tộc có hơn 1 triệu + .người .Ba dân tộc là Nùng, Mông, Dao có số dân từ trên 50 ...

Tài liệu được xem nhiều: