Bạn đã biết cách xử lý khi bị bỏng?
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 192.12 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Vết thương do bỏng có thể làm chết người do bị sốc hoặc để lại những di chứng nặng nề như mất chức năng vận động, để lại sẹo xấu... Tổn thương do bỏng gây ra rất đa dạng, vì vậy chúng ta cần hiểu rõ tình trạng và mức độ nguy hiểm của bỏng (độ nông sâu của bỏng, diện tích và vị trí của bỏng...) để có cách xử lý thích hợp.Tưới nước lạnh ngay sau khi bị bỏng giúp giảmđộ bỏng.Về nguyên tắc, trước một trường hợp bỏng cần phải làm những việc như sau: -...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bạn đã biết cách xử lý khi bị bỏng? Bạn đã biết cách xử lý khi bị bỏng? Vết thương do bỏng có thể làm chết người do bị sốc hoặc để lạinhững di chứng nặng nề như mất chức năng vận động, để lại sẹo xấu...Tổn thương do bỏng gây ra rất đa dạng, vì vậy chúng ta cần hiểu rõ tìnhtrạng và mức độ nguy hiểm của bỏng (độ nông sâu của bỏng, diện tíchvà vị trí của bỏng...) để có cách xử lý thích hợp. Tưới nước lạnh ngay sau khi bị bỏng giúp giảm độ bỏng. Về nguyên tắc, trước một trường hợp bỏng cần phải làm những việcnhư sau: - Trước hết phải đưa nạn nhân ra khỏi nơi bị nạn, loại bỏ tác nhân gâybỏng. Phải tháo bỏ những vật cứng trên vùng bỏng như giày, ủng, vòng,nhẫn... trước khi vết bỏng sưng nề. - Giữ sạch vùng bỏng: Để tránh nhiễm khuẩn không được bôi dầu,mỡ... lên vùng bỏng; Không làm vỡ các đám da phỏng nước; Không đượcbóc da hoặc mảnh quần áo dính vào vết bỏng; Có điều kiện thì phủ vết bỏngbằng gạc vô khuẩn nếu không thì dùng vải sạch. - Phòng chống sốc: Cho nạn nhân uống nhiều nước vì nạn nhân bịmất nước, đặc biệt khi phải chuyển nạn nhân đi xa (chỉ cho nạn nhân uốngnước khi nạn nhân tỉnh táo, không bị nôn và không có những chấn thươngkhác). Nếu có điều kiện thì cho nạn nhân uống dung dịch oresol, nếu khôngcó thì pha nước muối nhạt (có vị đậm như canh ăn hằng ngày là được). Chonạn nhân uống thuốc giảm đau thông thường, chỉ được dùng thuốc giảm đaumạnh khi chắc chắn rằng nạn nhân không có chấn thương bên trong kèmtheo. Bỏng được chia làm 3 mức độ và tùy mức độ bỏng mà xử lý cho phùhợp: Bỏng không rộp (bỏng độ 1), chỉ có lớp ngoài cùng của da bị tổnthương. Vùng bỏng không bị rộp mà đỏ ửng lên, nạn nhân đau rát nhiều dođầu mút đây thần kinh bị kích thích. Trường hợp này thường tự khỏi sau 3ngày nên có thể điều trị tại nhà. Tuy nhiên, trong ngày đầu bị bỏng, nên chobệnh nhân uống thuốc giảm đau thông thường như thuốc paracetamol hoặcaspirin. Bỏng rộp (bỏng độ 2), lớp biểu bì và một phần của lớp trung bì bị tổnthương, các túi phỏng nước được hình thành, nếu các túi phỏng nước vỡ rasẽ để lộ bề mặt màu hồng và cũng rất đau. Khi được sơ cứu đúng cách, giữsạch vết bỏng để tránh nhiễm khuẩn thì bỏng độ 2 sẽ tự khỏi sau vài ba tuần.Cũng giống như bỏng độ 1, nên cho nạn nhân uống thuốc giảm đau. Cần lưuý, sau khi lành bệnh, đám da bị bỏng sẽ có màu đỏ trong một thời gian dàimới trở lại màu sắc bình thường. Nếu bỏng độ 2 bị nhiễm khuẩn thì lớp dadưới sẽ bị phá hủy và bỏng độ 2 sẽ chuyển thành bỏng độ 3. Chính vì vậybỏng độ 2 cũng cần phải đưa nạn nhân đến cơ sở y tế để điều trị. Bỏng sâu (bỏng độ 3), lớp da ở vùng bỏng bị tổn thương toàn bộ (baogồm cả lỗ chân lông và tuyến mồ hôi). Lúc này nhìn thấy vùng da bị bỏng cómàu trắng nhợt hoặc màu xám, khô cứng. Trái ngược với bỏng độ 1 và 2,nạn nhân bị bỏng độ 3 đau ít hơn do các đầu mút của dây thần kinh đã bị pháhủy. Nhưng bỏng càng sâu thì nạn nhân bị mất nước càng nhiều do đó rất dễbị sốc và tử vong. Trường hợp này nhất thiết phải đưa ngay nạn nhân đến cơsở y tế để được cấp cứu kịp thời. Độ sâu của một vết bỏng nhiều khi không đều nhau vì độ sâu của cácvết bỏng phụ thuộc vào nhiệt độ và thời gian tác động lên da. Vì vậy để giảmđộ sâu của bỏng, ngay sau bị nạn (hoặc tối đa là 30 phút) phải dùng thậtnhiều nước lạnh sạch tưới liên tục lên vùng da bị bỏng. Một cách nữa để đánh giá bỏng nặng hay bỏng nhẹ là ước tính diệntích vết bỏng. Để dễ ước lượng diện tích vùng bỏng người ta thường dùngphương pháp số 9: đầu và cổ hoặc 1 tay tương đương 9% diện tích da của cơthể; mặt trước thân, mặt sau thân hoặc 1 chân tương đương 18%. Bỏng càngrộng thì càng nguy hiểm vì bỏng càng rộng càng gây mất nhiều dịch của cơthể, gây đau nhiều hơn, dễ bị sốc (do đau, do mất nước, do giảm thể tíchmáu...) và dễ bị nhiễm khuẩn. Đối với người lớn, nếu vùng da bị bỏng chiếmtừ 10% diện tích da, trẻ em bị bỏng từ 5-7% trở lên phải được coi là bỏngnặng và phải được chuyển đến cơ sở y tế cấp cứu càng nhanh càng tốt. Ngoài 2 cách kể trên còn căn cứ vào vị trí bỏng trên cơ thể để có cáchxử lý đúng, hoặc là trì hoãn được hoặc là phải chuyển ngay nạn nhân đến cơsở y tế. Chẳng hạn như bỏng vùng đầu mặt cổ, đặc biệt là bỏng mắt; hoặcbỏng vùng sinh dục; hoặc bỏng vùng khớp, đặc biệt là khớp bàn tay, bànchân, nách, bẹn... thì không thể điều trị bệnh nhân tại nhà cho dù là bỏngnhẹ. BS. Vũ Ngọc Tú ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bạn đã biết cách xử lý khi bị bỏng? Bạn đã biết cách xử lý khi bị bỏng? Vết thương do bỏng có thể làm chết người do bị sốc hoặc để lạinhững di chứng nặng nề như mất chức năng vận động, để lại sẹo xấu...Tổn thương do bỏng gây ra rất đa dạng, vì vậy chúng ta cần hiểu rõ tìnhtrạng và mức độ nguy hiểm của bỏng (độ nông sâu của bỏng, diện tíchvà vị trí của bỏng...) để có cách xử lý thích hợp. Tưới nước lạnh ngay sau khi bị bỏng giúp giảm độ bỏng. Về nguyên tắc, trước một trường hợp bỏng cần phải làm những việcnhư sau: - Trước hết phải đưa nạn nhân ra khỏi nơi bị nạn, loại bỏ tác nhân gâybỏng. Phải tháo bỏ những vật cứng trên vùng bỏng như giày, ủng, vòng,nhẫn... trước khi vết bỏng sưng nề. - Giữ sạch vùng bỏng: Để tránh nhiễm khuẩn không được bôi dầu,mỡ... lên vùng bỏng; Không làm vỡ các đám da phỏng nước; Không đượcbóc da hoặc mảnh quần áo dính vào vết bỏng; Có điều kiện thì phủ vết bỏngbằng gạc vô khuẩn nếu không thì dùng vải sạch. - Phòng chống sốc: Cho nạn nhân uống nhiều nước vì nạn nhân bịmất nước, đặc biệt khi phải chuyển nạn nhân đi xa (chỉ cho nạn nhân uốngnước khi nạn nhân tỉnh táo, không bị nôn và không có những chấn thươngkhác). Nếu có điều kiện thì cho nạn nhân uống dung dịch oresol, nếu khôngcó thì pha nước muối nhạt (có vị đậm như canh ăn hằng ngày là được). Chonạn nhân uống thuốc giảm đau thông thường, chỉ được dùng thuốc giảm đaumạnh khi chắc chắn rằng nạn nhân không có chấn thương bên trong kèmtheo. Bỏng được chia làm 3 mức độ và tùy mức độ bỏng mà xử lý cho phùhợp: Bỏng không rộp (bỏng độ 1), chỉ có lớp ngoài cùng của da bị tổnthương. Vùng bỏng không bị rộp mà đỏ ửng lên, nạn nhân đau rát nhiều dođầu mút đây thần kinh bị kích thích. Trường hợp này thường tự khỏi sau 3ngày nên có thể điều trị tại nhà. Tuy nhiên, trong ngày đầu bị bỏng, nên chobệnh nhân uống thuốc giảm đau thông thường như thuốc paracetamol hoặcaspirin. Bỏng rộp (bỏng độ 2), lớp biểu bì và một phần của lớp trung bì bị tổnthương, các túi phỏng nước được hình thành, nếu các túi phỏng nước vỡ rasẽ để lộ bề mặt màu hồng và cũng rất đau. Khi được sơ cứu đúng cách, giữsạch vết bỏng để tránh nhiễm khuẩn thì bỏng độ 2 sẽ tự khỏi sau vài ba tuần.Cũng giống như bỏng độ 1, nên cho nạn nhân uống thuốc giảm đau. Cần lưuý, sau khi lành bệnh, đám da bị bỏng sẽ có màu đỏ trong một thời gian dàimới trở lại màu sắc bình thường. Nếu bỏng độ 2 bị nhiễm khuẩn thì lớp dadưới sẽ bị phá hủy và bỏng độ 2 sẽ chuyển thành bỏng độ 3. Chính vì vậybỏng độ 2 cũng cần phải đưa nạn nhân đến cơ sở y tế để điều trị. Bỏng sâu (bỏng độ 3), lớp da ở vùng bỏng bị tổn thương toàn bộ (baogồm cả lỗ chân lông và tuyến mồ hôi). Lúc này nhìn thấy vùng da bị bỏng cómàu trắng nhợt hoặc màu xám, khô cứng. Trái ngược với bỏng độ 1 và 2,nạn nhân bị bỏng độ 3 đau ít hơn do các đầu mút của dây thần kinh đã bị pháhủy. Nhưng bỏng càng sâu thì nạn nhân bị mất nước càng nhiều do đó rất dễbị sốc và tử vong. Trường hợp này nhất thiết phải đưa ngay nạn nhân đến cơsở y tế để được cấp cứu kịp thời. Độ sâu của một vết bỏng nhiều khi không đều nhau vì độ sâu của cácvết bỏng phụ thuộc vào nhiệt độ và thời gian tác động lên da. Vì vậy để giảmđộ sâu của bỏng, ngay sau bị nạn (hoặc tối đa là 30 phút) phải dùng thậtnhiều nước lạnh sạch tưới liên tục lên vùng da bị bỏng. Một cách nữa để đánh giá bỏng nặng hay bỏng nhẹ là ước tính diệntích vết bỏng. Để dễ ước lượng diện tích vùng bỏng người ta thường dùngphương pháp số 9: đầu và cổ hoặc 1 tay tương đương 9% diện tích da của cơthể; mặt trước thân, mặt sau thân hoặc 1 chân tương đương 18%. Bỏng càngrộng thì càng nguy hiểm vì bỏng càng rộng càng gây mất nhiều dịch của cơthể, gây đau nhiều hơn, dễ bị sốc (do đau, do mất nước, do giảm thể tíchmáu...) và dễ bị nhiễm khuẩn. Đối với người lớn, nếu vùng da bị bỏng chiếmtừ 10% diện tích da, trẻ em bị bỏng từ 5-7% trở lên phải được coi là bỏngnặng và phải được chuyển đến cơ sở y tế cấp cứu càng nhanh càng tốt. Ngoài 2 cách kể trên còn căn cứ vào vị trí bỏng trên cơ thể để có cáchxử lý đúng, hoặc là trì hoãn được hoặc là phải chuyển ngay nạn nhân đến cơsở y tế. Chẳng hạn như bỏng vùng đầu mặt cổ, đặc biệt là bỏng mắt; hoặcbỏng vùng sinh dục; hoặc bỏng vùng khớp, đặc biệt là khớp bàn tay, bànchân, nách, bẹn... thì không thể điều trị bệnh nhân tại nhà cho dù là bỏngnhẹ. BS. Vũ Ngọc Tú ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
y tế sức khỏe y học thường thức bệnh người lớn bệnh trẻ em sức khỏe giới tính bệnh phụ khoa bệnh người già cách chăm sóc sức khỏe y học cổ truyền đông y trị bệnh cách xử lý khi bị bỏngGợi ý tài liệu liên quan:
-
thường thức bảo vệ sức khỏe mùa đông: phần 1 - nxb quân đội nhân dân
111 trang 270 0 0 -
Phương pháp lọc màng bụng cho những người bệnh suy thận
6 trang 228 0 0 -
7 trang 185 0 0
-
Một số dấu hiệu bất thường khi dùng thuốc
5 trang 182 0 0 -
6 trang 177 0 0
-
120 trang 169 0 0
-
Đề tài tiểu luận: Tổng quan về cây thuốc có tác dụng hỗ trợ điều trị ho
83 trang 163 0 0 -
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 163 0 0 -
Tài liệu học tập Bệnh học nội khoa Y học cổ truyền
1503 trang 151 5 0 -
Hoa cảnh chữa viêm gan, quai bị
5 trang 132 0 0