Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 189.08 KB
Lượt xem: 21
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Nguyễn Văn Tuấn Hiện nay có ý kiến cho rằng vắcxin không nên sử dụng trong những vùng đã bị ảnh hưởng bệnh tả. Điều này đúng và phù hợp với khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Nhưng vấn đề đặt ra là ở những vùng đang bị bão lụt, tuy bệnh chưa bộc phát, nhưng có nguy cơ bộc phát cao, thì có nên sử dụng vắcxin cho người dân hay không. Đứng trước vấn đề vừa nêu, quan điểm của Bộ Y tế không mấy...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế Nguyễn Văn Tuấn Hiện nay có ý kiến cho rằng vắcxin không nên sử dụng trong những vùng đã bị ảnh hưởng bệnh tả. Điều này đúng và phù hợp với khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Nhưng vấn đề đặt ra là ở những vùng đang bị bão lụt, tuy bệnh chưa bộc phát, nhưng có nguy cơ bộc phát cao, thì có nên sử dụng vắcxin cho người dân hay không. Đứng trước vấn đề vừa nêu, quan điểm của Bộ Y tế không mấy rõ ràng và có vẻ dè dặt. Ông Phó cục trưởng Cục Y tế dự phòng cho biết: “Lý do là hiệu quả của loại văcxin này rất thấp, chỉ đạt 60-70% (các văcxin thông thường phải gần 100%), nghĩa là khoảng 1/3 số người dùng văcxin vẫn có thể phát bệnh.” Một bác sĩ khác thì dẫn ý kiến của WHO rằng “theo quan điểm của tổ chức y tế thế giới cũng khuyến cáo dùng thuốc dùng ngừa dịch tả không phải là biện pháp hữu hiệu để ph òng chống dịch tả cho cộng đồng mà còn có thể gây cảm tưởng sai lầm cho sự an to àn cho người uống thuốc sẽ lơ là không đảm bảo vệ sinh an toàn thì cũng sẽ nhiễm bệnh như người không uống vắcxin.” Chúng tôi không tìm th ấy bất cứ tài liệu nào của WHO phát biểu nh ư vừa trích dẫn! Và, thật ra, chúng tôi cũng chẳng quan tâm họ nói hay viết gì. Tuy nhiên, chúng tôi muốn mượn “câu chuyện” này để có vài dòng bình luận ngắn về vấn đề nên hay không nên tiêm chủng vắcxin ở vùng đang bị bão lụt. Thứ nhất là nguyên tắc: cần phải xác định rằng không phải bất cứ phát biểu gì hay khuyến cáo nào của WHO cũng đều là chân lí mà chúng ta phải tuân theo hay phải tin vào. Các phát biểu và khuyến cáo của WHO chỉ có tính tham khảo. Vấn đề vắcxin và phòng ngừa bệnh tả ở nước ta phải dựa vào tình hình thực tế ở nước ta, chứ không dựa vào những khuyến cáo chung chung của WHO. (Hi vọng rằng ta biết tình hình ở nước ta hơn là người ngoài biết). Thứ hai, thế nào là “vùng có nguy cơ cao”? Đó những vùng hội đủ các tiêu chí dịch tễ học sau đây: (a) nhiều người dân có khả năng phải di dời khỏi nhà vì thiên tai; (b) trong điều kiện xa nhà người dân khó có thể có nguồn nước sạch và cũng không có cơ sở y tế ứng phó khi dịch khởi phát; và (c) là những vùng từng bộc phát bệnh. Theo các tiêu chí này thì miền Trung hiện nay rõ ràng là vùng có nguy cơ cao, bởi vì có nhiều người dân đang lâm vào cảnh “màn trời chiếu đất”, cơ sở y tế thiếu thốn, và miền Trung từng là tâm điểm của nhiều nạn dịch trong quá khứ. Thứ ba, khi nói đến “hiệu quả vắcxin” là nói đến cái gì? Nhiều quan chức y tế nói đến “hiệu quả vắcxin”, nhưng chúng tôi cho rằng ngôn ngữ của họ phức tạp quá và chắc chẳng có bao nhiêu người dân hiểu họ nói gì. Ngay cả chúng tôi nhiều khi cũng không hiểu họ nói gì! Phương pháp tốt nhất để đánh giá hiệu nghiệm của vắcxin (hay một thuốc hay một thuật điều trị nói chung) l à tiến hành một thử nghiệm lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled clinical trial). Theo phương pháp này, chúng ta chọn một nhóm đối tượng theo các tiêu chuẩn đã định trước; sau đó chia nhóm đối t ượng này thành hai nhóm một cách ngẫu nhiên: một nhóm được cho sử dụng vắcxin (tạm gọi là nhóm điều trị)và một nhóm không sử dụng vắcxin (còn gọi là nhóm chứng); theo dõi hai nhóm một thời gian để ghi nhận có bao nhiêu trường hợp bệnh tả phát sinh và phát sinh lúc nào; và sau cùng là so sánh tỉ lệ phát sinh giữa hai nhóm. Gọi tỉ lệ phát sinh bệnh trong nhóm điều trị là p1 và nhóm chứng là p0, hiệu quả được đơn giản định nghĩa bằng tỉ số p1/ p0. Nói thì hơi phức tạp rối rắm, nhưng một ví dụ đơn giản có thể giải thích rõ hơn: nếu sau 6 tháng theo dõi, tỉ lệ phát sinh bệnh trong nhóm điều trị là 1% và nhóm chứng là 10%, thì chúng ta có tỉ số nguy cơ bằng 0,01/0,10 = 0,1; nói cách khác, vắcxin giảm được 90% ca bệnh. Yếu tố thời gian ở đây quan trọng; nếu nói đến hiệu quả mà không nói đến thời gian thì có khi cũng vô nghĩa. Hiểu như thế thì mới thấy câu phát biểu của một quan chức y tế nh ư trích dẫn trên (“Lý do là hiệu quả của loại văcxin này rất thấp, chỉ đạt 60-70% […], nghĩa là khoảng 1/3 số người dùng văcxin vẫn có thể phát bệnh”) không chính xác, nếu không muốn nói là quá sai. Trong số những người sử dụng vắcxin, chỉ có một số rất ít phát sinh bệnh (bởi vì một phần tỉ lệ phát sinh bệnh thấp, và một phần do hiệu quả phòng bệnh của vắcxin). Chẳng hạn như trong nghiên cứu của giáo sư Đặng Đức Trạch (mà tôi trích chi tiết dưới đây) trong số 51.975 người sử dụng 2 liều vắcxin, có 25 người mắc bệnh sau 8 tháng theo dõi, tức tỉ lệ khoảng 0,5%. Nói rằng “1/3 số người dùng văcxin vẫn có thể phát bệnh” là cực kì sai lầm. Ở đây còn có vấn đề kĩ năng thông tin. Chúng tôi thắc mắc là tại sao ông lại chọn cách nói tiêu cực (“phát bệnh”) mà không chọn cách nói tích cực (“không phát bệnh”)? Vì vắcxin có chức năng ngừa bệnh chứ đâu phải phát bệnh. Do đó, cần phải nói theo chức năng của vắcxin thay vì nói ngược chức năng của nó. Thành ra, đối với người dân, câu hỏi mà họ mu ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế Nguyễn Văn Tuấn Hiện nay có ý kiến cho rằng vắcxin không nên sử dụng trong những vùng đã bị ảnh hưởng bệnh tả. Điều này đúng và phù hợp với khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Nhưng vấn đề đặt ra là ở những vùng đang bị bão lụt, tuy bệnh chưa bộc phát, nhưng có nguy cơ bộc phát cao, thì có nên sử dụng vắcxin cho người dân hay không. Đứng trước vấn đề vừa nêu, quan điểm của Bộ Y tế không mấy rõ ràng và có vẻ dè dặt. Ông Phó cục trưởng Cục Y tế dự phòng cho biết: “Lý do là hiệu quả của loại văcxin này rất thấp, chỉ đạt 60-70% (các văcxin thông thường phải gần 100%), nghĩa là khoảng 1/3 số người dùng văcxin vẫn có thể phát bệnh.” Một bác sĩ khác thì dẫn ý kiến của WHO rằng “theo quan điểm của tổ chức y tế thế giới cũng khuyến cáo dùng thuốc dùng ngừa dịch tả không phải là biện pháp hữu hiệu để ph òng chống dịch tả cho cộng đồng mà còn có thể gây cảm tưởng sai lầm cho sự an to àn cho người uống thuốc sẽ lơ là không đảm bảo vệ sinh an toàn thì cũng sẽ nhiễm bệnh như người không uống vắcxin.” Chúng tôi không tìm th ấy bất cứ tài liệu nào của WHO phát biểu nh ư vừa trích dẫn! Và, thật ra, chúng tôi cũng chẳng quan tâm họ nói hay viết gì. Tuy nhiên, chúng tôi muốn mượn “câu chuyện” này để có vài dòng bình luận ngắn về vấn đề nên hay không nên tiêm chủng vắcxin ở vùng đang bị bão lụt. Thứ nhất là nguyên tắc: cần phải xác định rằng không phải bất cứ phát biểu gì hay khuyến cáo nào của WHO cũng đều là chân lí mà chúng ta phải tuân theo hay phải tin vào. Các phát biểu và khuyến cáo của WHO chỉ có tính tham khảo. Vấn đề vắcxin và phòng ngừa bệnh tả ở nước ta phải dựa vào tình hình thực tế ở nước ta, chứ không dựa vào những khuyến cáo chung chung của WHO. (Hi vọng rằng ta biết tình hình ở nước ta hơn là người ngoài biết). Thứ hai, thế nào là “vùng có nguy cơ cao”? Đó những vùng hội đủ các tiêu chí dịch tễ học sau đây: (a) nhiều người dân có khả năng phải di dời khỏi nhà vì thiên tai; (b) trong điều kiện xa nhà người dân khó có thể có nguồn nước sạch và cũng không có cơ sở y tế ứng phó khi dịch khởi phát; và (c) là những vùng từng bộc phát bệnh. Theo các tiêu chí này thì miền Trung hiện nay rõ ràng là vùng có nguy cơ cao, bởi vì có nhiều người dân đang lâm vào cảnh “màn trời chiếu đất”, cơ sở y tế thiếu thốn, và miền Trung từng là tâm điểm của nhiều nạn dịch trong quá khứ. Thứ ba, khi nói đến “hiệu quả vắcxin” là nói đến cái gì? Nhiều quan chức y tế nói đến “hiệu quả vắcxin”, nhưng chúng tôi cho rằng ngôn ngữ của họ phức tạp quá và chắc chẳng có bao nhiêu người dân hiểu họ nói gì. Ngay cả chúng tôi nhiều khi cũng không hiểu họ nói gì! Phương pháp tốt nhất để đánh giá hiệu nghiệm của vắcxin (hay một thuốc hay một thuật điều trị nói chung) l à tiến hành một thử nghiệm lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled clinical trial). Theo phương pháp này, chúng ta chọn một nhóm đối tượng theo các tiêu chuẩn đã định trước; sau đó chia nhóm đối t ượng này thành hai nhóm một cách ngẫu nhiên: một nhóm được cho sử dụng vắcxin (tạm gọi là nhóm điều trị)và một nhóm không sử dụng vắcxin (còn gọi là nhóm chứng); theo dõi hai nhóm một thời gian để ghi nhận có bao nhiêu trường hợp bệnh tả phát sinh và phát sinh lúc nào; và sau cùng là so sánh tỉ lệ phát sinh giữa hai nhóm. Gọi tỉ lệ phát sinh bệnh trong nhóm điều trị là p1 và nhóm chứng là p0, hiệu quả được đơn giản định nghĩa bằng tỉ số p1/ p0. Nói thì hơi phức tạp rối rắm, nhưng một ví dụ đơn giản có thể giải thích rõ hơn: nếu sau 6 tháng theo dõi, tỉ lệ phát sinh bệnh trong nhóm điều trị là 1% và nhóm chứng là 10%, thì chúng ta có tỉ số nguy cơ bằng 0,01/0,10 = 0,1; nói cách khác, vắcxin giảm được 90% ca bệnh. Yếu tố thời gian ở đây quan trọng; nếu nói đến hiệu quả mà không nói đến thời gian thì có khi cũng vô nghĩa. Hiểu như thế thì mới thấy câu phát biểu của một quan chức y tế nh ư trích dẫn trên (“Lý do là hiệu quả của loại văcxin này rất thấp, chỉ đạt 60-70% […], nghĩa là khoảng 1/3 số người dùng văcxin vẫn có thể phát bệnh”) không chính xác, nếu không muốn nói là quá sai. Trong số những người sử dụng vắcxin, chỉ có một số rất ít phát sinh bệnh (bởi vì một phần tỉ lệ phát sinh bệnh thấp, và một phần do hiệu quả phòng bệnh của vắcxin). Chẳng hạn như trong nghiên cứu của giáo sư Đặng Đức Trạch (mà tôi trích chi tiết dưới đây) trong số 51.975 người sử dụng 2 liều vắcxin, có 25 người mắc bệnh sau 8 tháng theo dõi, tức tỉ lệ khoảng 0,5%. Nói rằng “1/3 số người dùng văcxin vẫn có thể phát bệnh” là cực kì sai lầm. Ở đây còn có vấn đề kĩ năng thông tin. Chúng tôi thắc mắc là tại sao ông lại chọn cách nói tiêu cực (“phát bệnh”) mà không chọn cách nói tích cực (“không phát bệnh”)? Vì vắcxin có chức năng ngừa bệnh chứ đâu phải phát bệnh. Do đó, cần phải nói theo chức năng của vắcxin thay vì nói ngược chức năng của nó. Thành ra, đối với người dân, câu hỏi mà họ mu ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Hiệu quả của Vắcxin Nghiên cứu khoa học Thành tựu Khoa học Y học với cuộc sống Y học trong đời sốngTài liệu liên quan:
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Kỹ năng quản lý thời gian của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội
80 trang 1555 4 0 -
Tiểu luận: Phương pháp Nghiên cứu Khoa học trong kinh doanh
27 trang 497 0 0 -
57 trang 342 0 0
-
33 trang 334 0 0
-
Tiểu luận môn Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học Thiên văn vô tuyến
105 trang 273 0 0 -
95 trang 270 1 0
-
Phương pháp nghiên cứu trong kinh doanh
82 trang 269 0 0 -
29 trang 230 0 0
-
Tóm tắt luận án tiến sỹ Một số vấn đề tối ưu hóa và nâng cao hiệu quả trong xử lý thông tin hình ảnh
28 trang 223 0 0 -
4 trang 217 0 0