BÁO CÁO: CÁC KHÂU ĐỘT PHÁ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ 2011 - 2020
Số trang: 26
Loại file: pdf
Dung lượng: 325.59 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trong 10 năm qua, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu về qui mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, trong bối cảnh cịu tác động mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, chúng ta vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu khá cao trong năm 2010 (tăng 24% so với năm 2009). Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, xuất nhập khẩu của nước ta còn nhiều hạn chế, yếu kém trên cả phương diện chất lượng tăng trưởng, cơ cấu xuất và nhập khẩu, thể chế...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
BÁO CÁO: CÁC KHÂU ĐỘT PHÁ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ 2011 - 2020 BỘ CÔNG THƯƠNG DỰ ÁN HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN EU – VIỆT NAM HOẠT ĐỘNG CB - 2A “HỖ TRỢ BỘ CÔNG THƯƠNG XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU THỜI KỲ 2011 - 2020”. BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ CÁC KHÂU ĐỘT PHÁ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ 2011 - 2020 CN. Vũ Huy Hùng Viện Nghiên cứu thương mại - Bộ Công Thương Hà Nội, 11 - 2010 LỜI MỞ ĐẦU Trong 10 năm qua, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu về qui mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, trong bối cảnh cịu tác động mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, chúng ta vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu khá cao trong năm 2010 (tăng 24% so với năm 2009). Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, xuất nhập khẩu của nước ta còn nhiều hạn chế, yếu kém trên cả phương diện chất lượng tăng trưởng, cơ cấu xuất và nhập khẩu, thể chế xuất nhập khẩu và hạ tầng phát triển xuất nhập khẩu. Những hạn chế yéu kém không chỉ kìm hãm, cản trở sức phát triển xuất nhập khẩu nói riêng, nền kinh tế nói chung trong ngắn hạn mà còn cả trong dài hạn. Thậm chí, nếu không kịp thời tháo gỡ, chuyển đổi, có thể sẽ dẫn đến càng tăng trưởng nhanh thì lợi ích quốc gia ngày càng bị xói mòn, tài nguyên bị cạn kiệt và không thể phát triển bền vững trong dài hạn. Vì thế, việc nghiên cứu để lựa chọn đúng khâu đột phá chiến lược nhằm tháo gỡ những cản trở, ngăn chặn những nguy cơ, đón bắt được thời cơ để phát triển nhanh và bền vững lĩnh vực xuất nhập khẩu của nước ta sẽ có ý nghĩa rất quan trọng trong thời kỳ chiến lược 2011 – 2020. Chuyên đề nghiên cứu này được thực hiện nhằm góp phần thực hiện mục tiêu quan trọng đó. Nội dung chuyên đề được trình bày thành 3 phần : I. Những hạn chế, yếu kém nhất trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hoá của nước ta hiện nay. II. Các khâu đột phá chiến lược để phát triển xuất nhập khẩu của Việt Nam thời kỳ tới 2020. 1 III. Một số giải pháp thực hiện các khâu đột phá chiến lược. Dưới đây là nội dung chuyên đề. 2 I.- NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM NHẤT TRONG LĨNH VỰC XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY 1. Chất lượng tăng trưởng xuất nhập khẩu thấp, cơ cấu lạc hậu, chi phí xuất khẩu cao, hiệu quả thấp. - Khả năng cạnh tranh của nhiều hàng hoá còn thấp do giá thành cao, chất lượng còn kém, mẫu mã chưa phù hợp với nhu cầu thị trường. Hàm lượng kỹ thuật công nghệ trong sản phẩm xuất khẩu còn thấp, tăng chậm. Tỷ trọng của nhóm hàng có hàm lượng công nghệ cao và trung – cao chỉ tăng từ 7,1% trong năm 2000 lên 11,3% trong năm 2005 và ước khoảng 14 – 15% trong năm 2010, còn lại là hàng công nghệ thấp và trung - thấp. Đến năm 2010, riêng nhóm hàng có hàm lượng công nghệ cao mới chiếm khoảng 8 – 9% tổng kim ngạch xuất khẩu, thấp hơn nhiều các nước trong khu vực (năm 2008, chỉ số này của Indonexia là 14%, Trung Quốc: 34%, Thái Lan: 30%; Hàn Quốc: 37%, Singaore: 57%, Malyxia: 58%). Khoảng 27% kim ngạch xuất khẩu là hàng công nghiệp chế tạo công nghệ thấp. - Xuất khẩu đang là một trong những động lực chính của tăng trưởng kinh tế, nhưng mô hình tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam vẫn đang phụ thuộc chủ yếu vào nguyên liệu thô và các ngành gia công, chế biến có chi phí cao, lệ thuộc vào đầu nhập khẩu, giá trị gia tăng thấp, dễ gây ô nhiễm môi trường, tiêu tốn ngoại tệ và nhìn chung là hiệu quả thấp. - Cơ cấu xuất khẩu chậm chuyển dịch theo hướng hiện đại, tỷ trọng nhóm hàng chế biên, chế tạo tăng rất chậm từ 46,7% trong năm 2001 lên 50,7% trong năm 2005, 53,4% trong năm 2009, ước đạt 55% trong năm 2010 (bình quân mỗi năm chỉ tăng được gần 1 điểm phần trăm). Tỷ trọng của nhóm hàng thô và sơ chế giảm rất chậm, tư 45,3% trong năm 2001 xuống 46,6% trong năm 2009 và ước còn 45% trong năm 2010. Riêng tỷ trọng của nhóm nguyên nhiên liệu và khoáng sản giảm từ 23,9% trong năm 2001 xuống 11% vào năm 2010. Khoảng 60% kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng nông sản là sản phẩm chưa qua chế biến. Xuất khẩu dịch vụ năm 2010 đạt 7 tỷ USD, trong 3 đó sản phẩm dịch vụ có giá trị gia tăng cao (tài chính – ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính viễn thông ...) chỉ chiếm 5 – 6%. - Chất lượng tăng trưởng xuất khẩu rất thấp. Giá trị tăng của hàng công nghiệp chế tạo xuất khẩu chỉ đạt khoảng 25 – 30%, hàng nông sản và khoáng sản xuất khẩu khoảng 50% (nếu tính giá trị gia tăng quốc gia, tức là phần giá trị tăng thêm người Việt Nam thực tế được hưởng thì tỷ lệ này còn thấp hơn, do các doanh nghiệp FDI chiếm trên 50% kim ngạch xuất khẩu, và một phần không nhỏ giá trị gia tăng này được nhà đầu tư nước ngoài chuyển về nước). Ta chưa thực hiện thành công một số khâu đột phá tăng trưởng xuất khẩu. Hàng điện tử và tin học chưa thực hiện được vai trò hạt nhân tăng trưởng của nhóm sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, năm 2009 chỉ đạt kim ngạch 2,76 tỷ USD, năm 2010 ước đạt khoảng 3,2 tỷ USD, chiếm 3,9% kim ngạch xuất khẩu. Hàng thực phẩm chế biên cũng chỉ đạt khoảng 300 triệu USD trong năm 2010, chiếm 0,42% kim ngạch xuất khẩu. - Trong nhóm hàng chế biến, chế tạo xuất khẩu, tỷ trọng của hàng gia công còn chiếm phần lớn, tỷ lệ nội địa hoá rất thấp. Một số ngành sản phẩm xuất khẩu chủ lực còn phụ thuộc phần lớn vào nguyên vật liệu , phụ liệu của nước ngoài: Sản phẩm điện tử khoảng 90%, sản phẩm gỗ khoảng 75%, sản phẩm dệt may và da giày khoảng 70%, sản phẩm nhựa khoảng 55%, sản phẩm hoá chất khoảng 805, sản phẩm thép khoảng 50%. Giá trị ngoại tệ thực thu của phần lớn các ngành sản phẩm công nghiệp chế biến xuất khẩu chỉ khoảng 20 – 30% doanh thu xuất khẩu; một số ngành rất thấp như điện tử, tin học chỉ khoảng 5%. - Cơ cấu nhập khẩu còn một số hạn chế, bất hợp lý, chưa chú trọng đáp ứng yêu cầu tăng cường phần cốt lõi của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng của nhóm máy móc, ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
BÁO CÁO: CÁC KHÂU ĐỘT PHÁ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ 2011 - 2020 BỘ CÔNG THƯƠNG DỰ ÁN HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN EU – VIỆT NAM HOẠT ĐỘNG CB - 2A “HỖ TRỢ BỘ CÔNG THƯƠNG XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU THỜI KỲ 2011 - 2020”. BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ CÁC KHÂU ĐỘT PHÁ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ 2011 - 2020 CN. Vũ Huy Hùng Viện Nghiên cứu thương mại - Bộ Công Thương Hà Nội, 11 - 2010 LỜI MỞ ĐẦU Trong 10 năm qua, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu về qui mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, trong bối cảnh cịu tác động mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, chúng ta vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu khá cao trong năm 2010 (tăng 24% so với năm 2009). Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, xuất nhập khẩu của nước ta còn nhiều hạn chế, yếu kém trên cả phương diện chất lượng tăng trưởng, cơ cấu xuất và nhập khẩu, thể chế xuất nhập khẩu và hạ tầng phát triển xuất nhập khẩu. Những hạn chế yéu kém không chỉ kìm hãm, cản trở sức phát triển xuất nhập khẩu nói riêng, nền kinh tế nói chung trong ngắn hạn mà còn cả trong dài hạn. Thậm chí, nếu không kịp thời tháo gỡ, chuyển đổi, có thể sẽ dẫn đến càng tăng trưởng nhanh thì lợi ích quốc gia ngày càng bị xói mòn, tài nguyên bị cạn kiệt và không thể phát triển bền vững trong dài hạn. Vì thế, việc nghiên cứu để lựa chọn đúng khâu đột phá chiến lược nhằm tháo gỡ những cản trở, ngăn chặn những nguy cơ, đón bắt được thời cơ để phát triển nhanh và bền vững lĩnh vực xuất nhập khẩu của nước ta sẽ có ý nghĩa rất quan trọng trong thời kỳ chiến lược 2011 – 2020. Chuyên đề nghiên cứu này được thực hiện nhằm góp phần thực hiện mục tiêu quan trọng đó. Nội dung chuyên đề được trình bày thành 3 phần : I. Những hạn chế, yếu kém nhất trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hoá của nước ta hiện nay. II. Các khâu đột phá chiến lược để phát triển xuất nhập khẩu của Việt Nam thời kỳ tới 2020. 1 III. Một số giải pháp thực hiện các khâu đột phá chiến lược. Dưới đây là nội dung chuyên đề. 2 I.- NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM NHẤT TRONG LĨNH VỰC XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY 1. Chất lượng tăng trưởng xuất nhập khẩu thấp, cơ cấu lạc hậu, chi phí xuất khẩu cao, hiệu quả thấp. - Khả năng cạnh tranh của nhiều hàng hoá còn thấp do giá thành cao, chất lượng còn kém, mẫu mã chưa phù hợp với nhu cầu thị trường. Hàm lượng kỹ thuật công nghệ trong sản phẩm xuất khẩu còn thấp, tăng chậm. Tỷ trọng của nhóm hàng có hàm lượng công nghệ cao và trung – cao chỉ tăng từ 7,1% trong năm 2000 lên 11,3% trong năm 2005 và ước khoảng 14 – 15% trong năm 2010, còn lại là hàng công nghệ thấp và trung - thấp. Đến năm 2010, riêng nhóm hàng có hàm lượng công nghệ cao mới chiếm khoảng 8 – 9% tổng kim ngạch xuất khẩu, thấp hơn nhiều các nước trong khu vực (năm 2008, chỉ số này của Indonexia là 14%, Trung Quốc: 34%, Thái Lan: 30%; Hàn Quốc: 37%, Singaore: 57%, Malyxia: 58%). Khoảng 27% kim ngạch xuất khẩu là hàng công nghiệp chế tạo công nghệ thấp. - Xuất khẩu đang là một trong những động lực chính của tăng trưởng kinh tế, nhưng mô hình tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam vẫn đang phụ thuộc chủ yếu vào nguyên liệu thô và các ngành gia công, chế biến có chi phí cao, lệ thuộc vào đầu nhập khẩu, giá trị gia tăng thấp, dễ gây ô nhiễm môi trường, tiêu tốn ngoại tệ và nhìn chung là hiệu quả thấp. - Cơ cấu xuất khẩu chậm chuyển dịch theo hướng hiện đại, tỷ trọng nhóm hàng chế biên, chế tạo tăng rất chậm từ 46,7% trong năm 2001 lên 50,7% trong năm 2005, 53,4% trong năm 2009, ước đạt 55% trong năm 2010 (bình quân mỗi năm chỉ tăng được gần 1 điểm phần trăm). Tỷ trọng của nhóm hàng thô và sơ chế giảm rất chậm, tư 45,3% trong năm 2001 xuống 46,6% trong năm 2009 và ước còn 45% trong năm 2010. Riêng tỷ trọng của nhóm nguyên nhiên liệu và khoáng sản giảm từ 23,9% trong năm 2001 xuống 11% vào năm 2010. Khoảng 60% kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng nông sản là sản phẩm chưa qua chế biến. Xuất khẩu dịch vụ năm 2010 đạt 7 tỷ USD, trong 3 đó sản phẩm dịch vụ có giá trị gia tăng cao (tài chính – ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính viễn thông ...) chỉ chiếm 5 – 6%. - Chất lượng tăng trưởng xuất khẩu rất thấp. Giá trị tăng của hàng công nghiệp chế tạo xuất khẩu chỉ đạt khoảng 25 – 30%, hàng nông sản và khoáng sản xuất khẩu khoảng 50% (nếu tính giá trị gia tăng quốc gia, tức là phần giá trị tăng thêm người Việt Nam thực tế được hưởng thì tỷ lệ này còn thấp hơn, do các doanh nghiệp FDI chiếm trên 50% kim ngạch xuất khẩu, và một phần không nhỏ giá trị gia tăng này được nhà đầu tư nước ngoài chuyển về nước). Ta chưa thực hiện thành công một số khâu đột phá tăng trưởng xuất khẩu. Hàng điện tử và tin học chưa thực hiện được vai trò hạt nhân tăng trưởng của nhóm sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, năm 2009 chỉ đạt kim ngạch 2,76 tỷ USD, năm 2010 ước đạt khoảng 3,2 tỷ USD, chiếm 3,9% kim ngạch xuất khẩu. Hàng thực phẩm chế biên cũng chỉ đạt khoảng 300 triệu USD trong năm 2010, chiếm 0,42% kim ngạch xuất khẩu. - Trong nhóm hàng chế biến, chế tạo xuất khẩu, tỷ trọng của hàng gia công còn chiếm phần lớn, tỷ lệ nội địa hoá rất thấp. Một số ngành sản phẩm xuất khẩu chủ lực còn phụ thuộc phần lớn vào nguyên vật liệu , phụ liệu của nước ngoài: Sản phẩm điện tử khoảng 90%, sản phẩm gỗ khoảng 75%, sản phẩm dệt may và da giày khoảng 70%, sản phẩm nhựa khoảng 55%, sản phẩm hoá chất khoảng 805, sản phẩm thép khoảng 50%. Giá trị ngoại tệ thực thu của phần lớn các ngành sản phẩm công nghiệp chế biến xuất khẩu chỉ khoảng 20 – 30% doanh thu xuất khẩu; một số ngành rất thấp như điện tử, tin học chỉ khoảng 5%. - Cơ cấu nhập khẩu còn một số hạn chế, bất hợp lý, chưa chú trọng đáp ứng yêu cầu tăng cường phần cốt lõi của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng của nhóm máy móc, ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
chiến lược phát triển thương mại chiến lược xuất khẩu nhập môn Kinh tế học Vi mô kinh tế vi mô kinh tế vĩ mô kinh tế phát triển kinh tế lượngTài liệu liên quan:
-
Giáo trình Kinh tế vi mô - TS. Lê Bảo Lâm
144 trang 737 21 0 -
Giáo trình Kinh tế vi mô - PGS.TS Lê Thế Giới (chủ biên)
238 trang 583 0 0 -
Phương pháp nghiên cứu nguyên lý kinh tế vi mô (Principles of Microeconomics): Phần 2
292 trang 558 0 0 -
Đề cương môn Kinh tế học đại cương - Trường ĐH Mở TP. Hồ Chí Minh
6 trang 332 0 0 -
Tiểu luận Kinh tế phát triển so sánh: Kinh tế Trung Quốc
36 trang 307 0 0 -
38 trang 255 0 0
-
Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - PGS.TS. Nguyễn Văn Dần (chủ biên) (HV Tài chính)
488 trang 250 1 0 -
Bài giảng Kinh tế vi mô - Trường CĐ Cộng đồng Lào Cai
92 trang 241 0 0 -
229 trang 191 0 0
-
Bài giảng môn Nguyên lý kinh tế vĩ mô: Chương 2 - Lưu Thị Phượng
51 trang 189 0 0