Danh mục

Báo cáo DẠNG BỊ ĐỘNG VÀ VẤN ĐỀ CÂU BỊ ĐỘNG TRONG TIẾNG VIỆT

Số trang: 10      Loại file: pdf      Dung lượng: 245.60 KB      Lượt xem: 17      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 5,000 VND Tải xuống file đầy đủ (10 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tham khảo bài viết báo cáo "dạng bị động và vấn đề câu bị động trong tiếng việt ", luận văn - báo cáo phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Báo cáo "DẠNG BỊ ĐỘNG VÀ VẤN ĐỀ CÂU BỊ ĐỘNG TRONG TIẾNG VIỆT " DẠNG BỊ ĐỘNG VÀ VẤN ĐỀ CÂU BỊ ĐỘNG TRONG TIẾNG VIỆT (1)* Nguyễn Hồng Cổn Bùi Thị Diên Dạng bị động (passive voice), và cùng với nó là khái niệm câu bị động (passivesentence), là một hiện tượng ngữ pháp điển hình của các ngôn ngữ Ấn - Âu. Mặc dù xét vềmặt chức năng, khái niệm này đề cập trực tiếp đến mối quan hệ ngữ pháp giữa động từ và cácthành tố ngữ pháp nòng cốt là chủ ngữ và bổ ngữ, nhưng ngữ pháp truyền thống châu Âu,dựa vào phương thức biểu hiện của nó, thường quy dạng bị động về phạm trù hình thái họccủa động từ (phạm trù dạng - voice). Trong các công trình ngữ pháp hiện đại, dạng bị độngnói chung và câu bị động nói riêng được xem xét và kiến giải theo nhiều hướng khác nhau(phổ niệm, loại hình, chức năng). Tuy nhiên, cho đến nay, nhiều vấn đề liên quan đếndạng/câu bị động trong các ngôn ngữ vẫn chưa được làm sáng tỏ, chẳng hạn: Bị động là mộthiện tượng có tính phổ quát hay có tính loại hình? Dạng/câu bị động có những đặc điểm gìgiống nhau và khác nhau giữa các ngôn ngữ? Trong tiếng Việt, bị động cũng là một vấn đề ngữ pháp gây nhiều tranh cãi. Một sốnhà Việt ngữ học cho rằng tiếng Việt không có dạng bị động hay câu bị động vì tiếng Việtkhông biến đổi hình thái. Một số khác cho rằng mặc dù tiếng Việt không có dạng bị động vớitư cách là một phạm trù ngữ pháp của động từ, nhưng vẫn có thể nói đến kết cấu/câu bị độngtrong tiếng Việt căn cứ vào sự tồn tại của các cấu trúc có vị ngữ gồm được/ bị kết hợp vớimột động từ ngoại động. Để góp phần trả lời những câu hỏi trên đây, trong bài viết này chúng tôi sẽ điểm luậnlại một số vấn đề liên quan đến hiện tượng bị động trong các lý thuyết ngữ pháp và thảo luậnthêm về vấn đề câu bị động trong tiếng Việt. Nội dung của bài viết bao gồm 2 phần: 1. Dạngbị động trong các lý thuyết ngữ pháp. 2. Vấn đề câu bị động trong tiếng Việt.1. Dạng bị động trong các lý thuyết ngữ pháp1.1 Dạng bị động trong Ngữ pháp truyền thống Thuật ngữ “dạng” (có người gọi là “thái” ) được dịch từ thuật ngữ tiếng Anh tương ứng làvoice vốn bắt nguồn từ danh từ Latin vox có nghĩa là âm thanh, từ (Asher 1994: 4938).Theo ngữ pháp truyền thống, dạng là một trong số các phạm trù ngữ pháp điển hình của độngtừ (như: ngôi, thời, thể, v.v), trước hết là của các động từ ngoại động. Từ điển ngôn ngữ họcvà ngữ âm học của David Crystal định nghĩa về dạng như sau: “Dạng là một phạm trù đượcdùng trong việc mô tả cấu trúc câu hoặc mệnh đề chủ yếu liên quan đến động từ, để thể hiệncách mà các câu có thể lựa chọn mối quan hệ giữa chủ ngữ và bổ ngữ của động từ, mà khônglàm thay đổi nghĩa của câu.” (David Crystal 1998: 413). Hình thức biểu hiện của dạng trongcác ngôn ngữ không giống nhau. Ở những ngôn ngữ có phạm trù hình thái học rõ ràng nhưtiếng Latin hay Hy Lạp, dạng luôn gắn liền với hình thái của động từ. Ví dụ, trong tiếng HyLạp - một ngôn ngữ có ba dạng là chủ động, trung gian và bị động, các dạng của động từ“dạy” chia ở ngôi thứ nhất số ít chẳng hạn, luôn được phân biệt bằng sự biến đổi đuôi củađộng từ: epaideusamen (“dạy” ở dạng chủ động), epaideusametha (“dạy” ở dạng trung gian),epaideuthemen (“dạy” ở dạng bị động). Tuy nhiên, ở các ngôn ngữ có phạm trù hình thái họckhông rõ ràng như tiếng Anh hay tiếng Hán, phạm trù dạng được biểu hiện bằng nhữngphương tiện khác nhau và thường gắn liền với cấu trúc cú pháp. Chẳng hạn trong tiếng Anh, 1các hình thức đối lập của dạng không chỉ biểu hiện bằng sự biến đổi hình thái của động từ(phụ tố hay nội biến tố) mà còn bằng phương tiện cú pháp như trợ động từ (auxiliary), trật tựtừ, và tất cả các phương tiện này đồng xuất hiện trong cùng một cấu trúc cú pháp. Trong các ngôn ngữ có phạm trù dạng, mà phần lớn là các ngôn ngữ đối cách(accusative languages), khi đề cập đến phạm trù dạng của động từ, mà chủ yếu là động từngoại động, người ta thường phân biệt hai hình thái đối lập của dạng là hình thái chủ động(active forms) và hình thái bị động (passive forms), cũng thường được gọi là dạng chủ động(active voice) và dạng bị động (passive voice). Sự đối lập giữa dạng chủ động và dạng bịđộng về mặt cú pháp được biểu hiện trước hết ở sự thay thế trật tự của chủ ngữ và bổ ngữ(hay nói đúng hơn là sự thay thế các vai nghĩa của chủ ngữ và bổ ngữ) xét trong mối quan hệvới động từ. Có thể minh hoạ về sự phân biệt này qua ví dụ sau đây: (1a) The cat chased the mouse. (Mèo đuổi chuột) (1b) The mouse was chased by the cat. (Chuột bị mèo đuổi)Trong câu (1a), động từ ở dạng chủ động, chủ ngữ ngữ pháp của câu đồng thời cũng là tácthể. Trong câu (1b), động từ ở dạng bị động, chủ ngữ ngữ pháp là đối thể của hành động (đốitượng chịu tác ...

Tài liệu được xem nhiều: