Báo cáo nghiên cứu khoa học Bàn về vị trí của cuộc chiến đấu của quân và dân thủ đô (12/1946 – 2/1947) trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc (PGS.TS Nguyễn Đình Lê)
Số trang: 13
Loại file: pdf
Dung lượng: 199.12 KB
Lượt xem: 6
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Đã có những công trình nghiên cứu về cuộc chiến đấu của quân và dân thủ đô Hà Nội trong ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp của toàn dân tộc. Và cũng có rất nhiều công trình nghiên cứu về chiến dịch quân sự của Quân đội nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp (1945- 1954) và chống Mỹ (1954- 1975). Trong các công trình nghiên cứu đã công bố, đều khẳng định chiến dịch Thu đông 1947 là chiến dịch đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Báo cáo nghiên cứu khoa học " Bàn về vị trí của cuộc chiến đấu của quân và dân thủ đô (12/1946 – 2/1947) trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc (PGS.TS Nguyễn Đình Lê) " Bàn về vị trí của cuộc chiến đấu của quân v à dân thủ đô (12/1946 – 2/1947) trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc (PGS.TS Nguyễn Đình Lê) Đã có những công trình nghiên cứu về cuộc chiến đấu của quân và dân thủđô Hà Nội trong ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp của toàn dân tộc. Vàcũng có rất nhiều công trình nghiên cứu về chiến dịch quân sự của Quân đội nhândân Việt Nam (QĐNDVN) qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) vàchống Mỹ (1954- 1975). Trong các công trình nghiên cứu đã công bố, đều khẳngđịnh chiến dịch Thu đông 1947 là chiến dịch đầu tiên của Quân đội nhân dân ViệtNam. Xuất phát từ thực tế chiến tr ường và từ những tiêu chí chung về chiếndịch, chúng tôi muốn xác định rằng, cuộc chiến đấu 60 ng ày đêm trong lòng HàNội của lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam từ cuối năm 1946 đến đầu năm1947 là chiến dịch Phản công đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Mongnhận được ý kiên trao đổi từ phía bạn đọc. * * * Đánh giá của các cơ quan nghiên cứu, mà trước hết là Viện Lịch sử quânsự Việt Nam, khá thống nhất về các chiến dịch quân sự của QĐNDVN trong 2cuộc kháng chiến. Nội dung căn bản là, chiến dịch quân sự đầu tiên là chiến dịchViệt Bắc Thu- Đông 1947 và cuối cùng là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùaXuân năm 1947, mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh[1]. Về loại hình chiến dịch, cho đến trước năm 1972, được chia làm haihình thức: Một là, chiến dịch phản công, mà đặc điểm của chiến dịch này là địchtiến công còn ta chủ động phòng ngự để đập tan ý đồ của địch. Các chiến dịch tiêubiểu cho loại này như chiến dịch Việt Bắc Thu- Đông 1947 trong kháng chiếnchống Pháp và các chiến dịch phản công của Quân giải phóng miền Nam trongmùa khô lần thứ nhất (1965- 1966) ở chiến trường Đông Nam Bộ và vùng Khu V.Loại thứ 2 là chiến dịch tiến công, nghĩa là bộ đội chủ động tiến công địch. Cácchiến dịch tiêu biểu là Biên giới (1950)- được đánh giá là chiến dịch tiến công đầutiên của lực lượng vũ trang (LLVT) cách mạng, các chiến dịch khác như Khe Sanh(1967), tiến công Tết Mậu Thân (1968), tiến công chiến lược năm 1972 và đặc biệtlà các chiến dịch trong mùa Xuân 1975. Trong tiến công chiến lược năm 1972, qua thực tiễn chiến đấu ở chiếntrường Quảng Trị, LLVT cách mạng chiến đấu tổ chức, thực hiện loại chiến dịchmới mang tên chiến dịch phòng ngự. Sông Thạch Hãn trong cuộc tiến công chiếnlược năm 1972 là chiến tuyến phòng ngự nổi bật của loại chiến dịch này. Trong một vài năm gần đây, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam đã nghiêncứu, công bố thêm một số chiến dịch cụ thể. Trước đây, trong cuộc Tiến công vànổi dậy mùa Xuân năm 1975 được coi là có 3 chiến dịch then chốt là Chiến dịchBuôn Ma Thuột- Tây Nguyên (chiến dịch mở chiến dịch Hồ Chí Minh). Các cuộchội thảo vừa qua đã cho rằng, Mặt trận Huế, Đà Nẵng, dù có mối liên hệ chặt chẽ,nhưng thực tế lịch sử cho thấy, cần tách nó thành 2 chiến dịch tiến công quân sự làChiến dịch Huế và Chiến dịch Đà Nẵng. Các nhà khoa học đã có định nghĩa về chiến dịch quân sự. Đó l à nhữngđịnh nghĩa kinh điển. Tuy nhiên tựu trung lại, có thể xác định các tiêu chí để phânđịnh chủ yếu cho một chiến dịch hoạt động quân sự của LLVT cách mạng ViệtNam như sau: Có mục tiêu chính trị, quân sự rõ ràng và có bộ chỉ huy thống nhất đểthực hiện những mục tiêu cụ thể đó. Lực lượng thường nhiều đơn vị hợp thành, có đơn vị chủ công, có phốithuộc và thường xuyên phối hợp tác chiến giữa các đơn vị cùng tham gia chiếndịch và có cả phối hợp của các mặt trận ngoại biên. Địa bàn diễn ra rộng, không giới hạn nhỏ như địa bàn tác chiến của mộttrận đánh. Thời gian diễn ra của một chiến dịch tương đối dài, không nhanh gọnnhư một trận chiến đấu cụ thể. Chiến dịch có nhiều trận đánh, nhưng ít nhất có một trận đánh then chốtquyết định toàn bộ tiến trình của chiến dịch. Đối chiếu với tiêu chuẩn căn bản về chiến dịch như trên, chúng ta có thểphân tích tình hình cuộc chiến đấu ở Hà Nội vào cuối năm 1946 đầu năm 1947 đểxác định rõ hơn vị trí của nó trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Về tổ chức chỉ huy nhiệm vụ chiến đấu: Cuối năm 1946, trước tình thế thực dân Pháp lấn tới bước đường cùng là lậtđổ chính quyền Cách mạng non trẻ, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minhđã phát động cuộc kháng chiến toàn dân. Cuộc chiến đấu của quân và dân Thủ đôkéo dài 2 tháng ở Hà Nội mở ra thời kỳ sôi động của cuộc kháng chiến thần thánhlần thứ nhất. Nhiệm vụ chiến lược của quân và dân Thủ đô được Trung ương và Hồ Chủtịch giao phó là đánh địch và giam chân dịch trong thành phố càng lâu càng tốt đểtạo điều kiện cho Bộ Tổng ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Báo cáo nghiên cứu khoa học " Bàn về vị trí của cuộc chiến đấu của quân và dân thủ đô (12/1946 – 2/1947) trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc (PGS.TS Nguyễn Đình Lê) " Bàn về vị trí của cuộc chiến đấu của quân v à dân thủ đô (12/1946 – 2/1947) trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc (PGS.TS Nguyễn Đình Lê) Đã có những công trình nghiên cứu về cuộc chiến đấu của quân và dân thủđô Hà Nội trong ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp của toàn dân tộc. Vàcũng có rất nhiều công trình nghiên cứu về chiến dịch quân sự của Quân đội nhândân Việt Nam (QĐNDVN) qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) vàchống Mỹ (1954- 1975). Trong các công trình nghiên cứu đã công bố, đều khẳngđịnh chiến dịch Thu đông 1947 là chiến dịch đầu tiên của Quân đội nhân dân ViệtNam. Xuất phát từ thực tế chiến tr ường và từ những tiêu chí chung về chiếndịch, chúng tôi muốn xác định rằng, cuộc chiến đấu 60 ng ày đêm trong lòng HàNội của lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam từ cuối năm 1946 đến đầu năm1947 là chiến dịch Phản công đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Mongnhận được ý kiên trao đổi từ phía bạn đọc. * * * Đánh giá của các cơ quan nghiên cứu, mà trước hết là Viện Lịch sử quânsự Việt Nam, khá thống nhất về các chiến dịch quân sự của QĐNDVN trong 2cuộc kháng chiến. Nội dung căn bản là, chiến dịch quân sự đầu tiên là chiến dịchViệt Bắc Thu- Đông 1947 và cuối cùng là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùaXuân năm 1947, mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh[1]. Về loại hình chiến dịch, cho đến trước năm 1972, được chia làm haihình thức: Một là, chiến dịch phản công, mà đặc điểm của chiến dịch này là địchtiến công còn ta chủ động phòng ngự để đập tan ý đồ của địch. Các chiến dịch tiêubiểu cho loại này như chiến dịch Việt Bắc Thu- Đông 1947 trong kháng chiếnchống Pháp và các chiến dịch phản công của Quân giải phóng miền Nam trongmùa khô lần thứ nhất (1965- 1966) ở chiến trường Đông Nam Bộ và vùng Khu V.Loại thứ 2 là chiến dịch tiến công, nghĩa là bộ đội chủ động tiến công địch. Cácchiến dịch tiêu biểu là Biên giới (1950)- được đánh giá là chiến dịch tiến công đầutiên của lực lượng vũ trang (LLVT) cách mạng, các chiến dịch khác như Khe Sanh(1967), tiến công Tết Mậu Thân (1968), tiến công chiến lược năm 1972 và đặc biệtlà các chiến dịch trong mùa Xuân 1975. Trong tiến công chiến lược năm 1972, qua thực tiễn chiến đấu ở chiếntrường Quảng Trị, LLVT cách mạng chiến đấu tổ chức, thực hiện loại chiến dịchmới mang tên chiến dịch phòng ngự. Sông Thạch Hãn trong cuộc tiến công chiếnlược năm 1972 là chiến tuyến phòng ngự nổi bật của loại chiến dịch này. Trong một vài năm gần đây, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam đã nghiêncứu, công bố thêm một số chiến dịch cụ thể. Trước đây, trong cuộc Tiến công vànổi dậy mùa Xuân năm 1975 được coi là có 3 chiến dịch then chốt là Chiến dịchBuôn Ma Thuột- Tây Nguyên (chiến dịch mở chiến dịch Hồ Chí Minh). Các cuộchội thảo vừa qua đã cho rằng, Mặt trận Huế, Đà Nẵng, dù có mối liên hệ chặt chẽ,nhưng thực tế lịch sử cho thấy, cần tách nó thành 2 chiến dịch tiến công quân sự làChiến dịch Huế và Chiến dịch Đà Nẵng. Các nhà khoa học đã có định nghĩa về chiến dịch quân sự. Đó l à nhữngđịnh nghĩa kinh điển. Tuy nhiên tựu trung lại, có thể xác định các tiêu chí để phânđịnh chủ yếu cho một chiến dịch hoạt động quân sự của LLVT cách mạng ViệtNam như sau: Có mục tiêu chính trị, quân sự rõ ràng và có bộ chỉ huy thống nhất đểthực hiện những mục tiêu cụ thể đó. Lực lượng thường nhiều đơn vị hợp thành, có đơn vị chủ công, có phốithuộc và thường xuyên phối hợp tác chiến giữa các đơn vị cùng tham gia chiếndịch và có cả phối hợp của các mặt trận ngoại biên. Địa bàn diễn ra rộng, không giới hạn nhỏ như địa bàn tác chiến của mộttrận đánh. Thời gian diễn ra của một chiến dịch tương đối dài, không nhanh gọnnhư một trận chiến đấu cụ thể. Chiến dịch có nhiều trận đánh, nhưng ít nhất có một trận đánh then chốtquyết định toàn bộ tiến trình của chiến dịch. Đối chiếu với tiêu chuẩn căn bản về chiến dịch như trên, chúng ta có thểphân tích tình hình cuộc chiến đấu ở Hà Nội vào cuối năm 1946 đầu năm 1947 đểxác định rõ hơn vị trí của nó trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Về tổ chức chỉ huy nhiệm vụ chiến đấu: Cuối năm 1946, trước tình thế thực dân Pháp lấn tới bước đường cùng là lậtđổ chính quyền Cách mạng non trẻ, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minhđã phát động cuộc kháng chiến toàn dân. Cuộc chiến đấu của quân và dân Thủ đôkéo dài 2 tháng ở Hà Nội mở ra thời kỳ sôi động của cuộc kháng chiến thần thánhlần thứ nhất. Nhiệm vụ chiến lược của quân và dân Thủ đô được Trung ương và Hồ Chủtịch giao phó là đánh địch và giam chân dịch trong thành phố càng lâu càng tốt đểtạo điều kiện cho Bộ Tổng ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
báo cáo nghiên cứu nghiên cứu khoa học nghiên cứu lịch sử khảo cổ học lịch sử Việt NamGợi ý tài liệu liên quan:
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Kỹ năng quản lý thời gian của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội
80 trang 1548 4 0 -
Tiểu luận: Phương pháp Nghiên cứu Khoa học trong kinh doanh
27 trang 489 0 0 -
57 trang 337 0 0
-
33 trang 330 0 0
-
95 trang 268 1 0
-
Tiểu luận môn Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học Thiên văn vô tuyến
105 trang 268 0 0 -
Phương pháp nghiên cứu trong kinh doanh
82 trang 263 0 0 -
15 trang 257 0 0
-
29 trang 221 0 0
-
Tóm tắt luận án tiến sỹ Một số vấn đề tối ưu hóa và nâng cao hiệu quả trong xử lý thông tin hình ảnh
28 trang 221 0 0