Báo cáo nghiên cứu khoa học Nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam nhằm mục tiêu phát triển bền vững
Số trang: 3
Loại file: pdf
Dung lượng: 84.36 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Hiện nay, Việt Nam đang nghiêng về mô hình thứ hai, đúng hơn là thiên về mô hình này. Xu hướng này được thể hiện bằng những thành tựu tăng trưởng kinh tế nhanh và liên tục trong nhiều năm qua, với cái giá phải trả khá lớn trong lĩnh vực văn hoá, xã hội và môi trường. Tăng trưởng một phần trăm kinh tế đi liền với nhiều phần trăm suy giảm môi trường sống và gia tăng phân hoá giàu nghèo là điều không ai mong muốn. Có thể thấy kinh tế Việt Nam cơ bản là...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Báo cáo nghiên cứu khoa học " Nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam nhằm mục tiêu phát triển bền vững " Nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam nhằm mục tiêu phát triển bền vững Nguyễn Quang HùngHiện nay, Việt Nam đang nghiêng về mô hình thứ hai, đúng hơn làthiên về mô hình này. Xu hướng này được thể hiện bằng nhữngthành tựu tăng trưởng kinh tế nhanh và liên tục trong nhiều nămqua, với cái giá phải trả khá lớn trong lĩnh vực văn hoá, xã hội vàmôi trường. Tăng trưởng một phần trăm kinh tế đi liền với nhiềuphần trăm suy giảm môi trường sống và gia tăng phân hoá giàunghèo là điều không ai mong muốn. Có thể thấy kinh tế Việt Namcơ bản là nền kinh tế gia công và khai thác nguyên liệu thô. Chođến thời điểm diễn ra cơn bão tài chính toàn cầu, mô hình tăngtrưởng của nước ta vẫn dựa trên bốn yếu tố là: khai thác nguồn tàinguyên (than đá, dầu thô, gỗ…), thâm dụng vốn, sử dụng lao độngchất lượng thấp và đầu tư lớn cho khu vực doanh nghiệp Nhànước.Không có gì khó hiểu khi Quốc hội đặt câu hỏi về tính hiệu quả vàsự công bằng trong kỳ họp cuối năm 2009. Sức khỏe của một nềnkinh tế không thể chỉ đo bằng con số % tăng trưởng, càng khôngthể dựa trên một khu vực kinh tế được ưu đãi. Đất đô thị, đấtchuyển mục tiêu kinh doanh, dầu thô, than, khoáng sản là mục tiêukhai thác của các tập đoàn kinh tế. Trong khi các doanh nghiệp tíchcực ưu tiên “kiếm lời” hơn là thực hiện trách nhiệm xã hội như đãcam kết và hứa hẹn, thì nhiều địa phương, đặc biệt chính quyềncấp tỉnh đang hành xử như những “tập đoàn kinh tế” nhằm theođuổi mục tiêu tăng trưởng và cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài,coi nhẹ an sinh xã hội của người dân.An sinh của Việt Nam đòi hỏi phải được cải thiện, từ số giườngbệnh, số phòng học cho đến những khoản trợ cấp vùng nghèo, lũlụt đều cần có những chính sách được thực thi nghiêm túc dưới sựchỉ đạo của Chính phủ. Rõ ràng là tăng trưởng kinh tế chưa tạo tiềnđề cho những nền móng xã hội trong cuộc chạy đua trên đường dàicủa đất nước. Kết quả nghiên cứu của ADB cho thấy tăng trưởngkinh tế không đi đôi với giảm nghèo ở châu Á, mà còn làm tănglên sự phân hoá giàu - nghèo, đặc biệt trong bối cảnh khủng hoảngvà suy thoái (ADB, 2010). Mặc dù tăng trưởng kinh tế sẽ giúp chogiáo dục và y tế có thêm kinh phí để phát triển và nâng cao chấtlượng bệnh viện, trường học. Tuy nhiên, nếu người dân không cótiền để cho con đi học, không có điều kiện để chi trả những dịch vụy tế chất lượng cao, thì những thành quả của tăng trưởng kinh tếtrở nên ít ý nghĩa.Sự quan tâm chú ý đến các vấn đề xã hội và sự chia sẻ trách nhiệmtrước những thách thức đi liền với tác động của suy thoái kinh tếdường như chưa được chú ý. Từ góc nhìn xã hội, bài viết này xemxét những thách thức đối với mục tiêu tăng trưởng và phát triểnbền vững trong giai đoạn phục hồi sau khủng hoảng. Thông quaphân tích tình hình lao động - việc làm và mục tiêu đảm bảo ansinh xã hội ở Việt Nam, bài viết nhấn mạnh sự cần thiết hướng đếnmột mô hình tăng trưởng cân bằng trong giai đoạn phục hồi vàphát triển tiếp theo của đất nước, đặc biệt trong một bối cảnh thếgiới có nhiều biến động khó lường.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Báo cáo nghiên cứu khoa học " Nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam nhằm mục tiêu phát triển bền vững " Nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam nhằm mục tiêu phát triển bền vững Nguyễn Quang HùngHiện nay, Việt Nam đang nghiêng về mô hình thứ hai, đúng hơn làthiên về mô hình này. Xu hướng này được thể hiện bằng nhữngthành tựu tăng trưởng kinh tế nhanh và liên tục trong nhiều nămqua, với cái giá phải trả khá lớn trong lĩnh vực văn hoá, xã hội vàmôi trường. Tăng trưởng một phần trăm kinh tế đi liền với nhiềuphần trăm suy giảm môi trường sống và gia tăng phân hoá giàunghèo là điều không ai mong muốn. Có thể thấy kinh tế Việt Namcơ bản là nền kinh tế gia công và khai thác nguyên liệu thô. Chođến thời điểm diễn ra cơn bão tài chính toàn cầu, mô hình tăngtrưởng của nước ta vẫn dựa trên bốn yếu tố là: khai thác nguồn tàinguyên (than đá, dầu thô, gỗ…), thâm dụng vốn, sử dụng lao độngchất lượng thấp và đầu tư lớn cho khu vực doanh nghiệp Nhànước.Không có gì khó hiểu khi Quốc hội đặt câu hỏi về tính hiệu quả vàsự công bằng trong kỳ họp cuối năm 2009. Sức khỏe của một nềnkinh tế không thể chỉ đo bằng con số % tăng trưởng, càng khôngthể dựa trên một khu vực kinh tế được ưu đãi. Đất đô thị, đấtchuyển mục tiêu kinh doanh, dầu thô, than, khoáng sản là mục tiêukhai thác của các tập đoàn kinh tế. Trong khi các doanh nghiệp tíchcực ưu tiên “kiếm lời” hơn là thực hiện trách nhiệm xã hội như đãcam kết và hứa hẹn, thì nhiều địa phương, đặc biệt chính quyềncấp tỉnh đang hành xử như những “tập đoàn kinh tế” nhằm theođuổi mục tiêu tăng trưởng và cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài,coi nhẹ an sinh xã hội của người dân.An sinh của Việt Nam đòi hỏi phải được cải thiện, từ số giườngbệnh, số phòng học cho đến những khoản trợ cấp vùng nghèo, lũlụt đều cần có những chính sách được thực thi nghiêm túc dưới sựchỉ đạo của Chính phủ. Rõ ràng là tăng trưởng kinh tế chưa tạo tiềnđề cho những nền móng xã hội trong cuộc chạy đua trên đường dàicủa đất nước. Kết quả nghiên cứu của ADB cho thấy tăng trưởngkinh tế không đi đôi với giảm nghèo ở châu Á, mà còn làm tănglên sự phân hoá giàu - nghèo, đặc biệt trong bối cảnh khủng hoảngvà suy thoái (ADB, 2010). Mặc dù tăng trưởng kinh tế sẽ giúp chogiáo dục và y tế có thêm kinh phí để phát triển và nâng cao chấtlượng bệnh viện, trường học. Tuy nhiên, nếu người dân không cótiền để cho con đi học, không có điều kiện để chi trả những dịch vụy tế chất lượng cao, thì những thành quả của tăng trưởng kinh tếtrở nên ít ý nghĩa.Sự quan tâm chú ý đến các vấn đề xã hội và sự chia sẻ trách nhiệmtrước những thách thức đi liền với tác động của suy thoái kinh tếdường như chưa được chú ý. Từ góc nhìn xã hội, bài viết này xemxét những thách thức đối với mục tiêu tăng trưởng và phát triểnbền vững trong giai đoạn phục hồi sau khủng hoảng. Thông quaphân tích tình hình lao động - việc làm và mục tiêu đảm bảo ansinh xã hội ở Việt Nam, bài viết nhấn mạnh sự cần thiết hướng đếnmột mô hình tăng trưởng cân bằng trong giai đoạn phục hồi vàphát triển tiếp theo của đất nước, đặc biệt trong một bối cảnh thếgiới có nhiều biến động khó lường.
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
báo cáo nghiên cứu nghiên cứu khoa học nghiên cứu chính trị kinh tế học xã hội Việt NamGợi ý tài liệu liên quan:
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Kỹ năng quản lý thời gian của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội
80 trang 1547 4 0 -
Giáo trình Kinh tế vi mô - PGS.TS Lê Thế Giới (chủ biên)
238 trang 579 0 0 -
Tiểu luận: Phương pháp Nghiên cứu Khoa học trong kinh doanh
27 trang 487 0 0 -
57 trang 337 0 0
-
Đề cương môn Kinh tế học đại cương - Trường ĐH Mở TP. Hồ Chí Minh
6 trang 330 0 0 -
33 trang 329 0 0
-
95 trang 268 1 0
-
Tiểu luận môn Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học Thiên văn vô tuyến
105 trang 266 0 0 -
Phương pháp nghiên cứu trong kinh doanh
82 trang 263 0 0 -
Giáo trình Kinh tế học vi mô cơ bản (Tái bản lần 1): Phần 1
72 trang 234 0 0