Danh mục

Báo cáo nghiên cứu khoa học Tăng cường tiếng việt cho trẻ mầm non dân tộc thiểu số ở Nghệ An

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 141.85 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Luật giáo dục quy định tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức được sử dụng thống nhất trong nhà trường Việt Nam. Nó có vai trò là công cụ để học tập và giao tiếp. Trẻ bước vào lớp 1 phải có vốn tiếng Việt và có kỹ năng tối thiểu khi sử dụng tiếng Việt: phát âm chuẩn, dùng từ ngữ phù hợp với nội dung, ngữ cảnh. Trẻ em chậm phát triển ngôn ngữ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc lĩnh hội kiến thức, hình thành các kỹ năng và từ đó thiếu niềm tin vào...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Báo cáo nghiên cứu khoa học " Tăng cường tiếng việt cho trẻ mầm non dân tộc thiểu số ở Nghệ An" Tăng cường tiếng việt cho trẻ mầ m non dân tộc thiểu số ở Nghệ AnLuật giáo dục quy định tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức được sử dụng thống nhấttrong nhà trường Việt Nam. Nó có vai trò là công cụ để học tập và giao tiếp. Trẻbước vào lớp 1 phải có vốn tiếng Việt và có kỹ năng tối thiểu khi sử dụng tiếngViệt: phát âm chuẩn, dùng từ ngữ phù hợp với nội dung, ngữ cảnh. Trẻ em chậmphát triển ngôn ngữ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc lĩnh hội kiến thức, hình thànhcác kỹ năng và từ đó thiếu niềm tin vào hoạt động học tập dẫn đến chán học, bỏhọc. Sự non yếu về tiếng Việt sẽ làm hạn chế về giao tiếp của các em trong sinhhoạt ở nhà trường, gia đình và cộng đồng. Trước khi đến trường, vốn từ và các kỹnăng giao tiếp của trẻ chủ yếu được hình thành qua thói quen I. Đặt vấn đề Luật giáo dục quy định tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức được sử dụng thốngnhất trong nhà trường Việt Nam. Nó có vai trò là công cụ để học tập và giao tiếp.Trẻ bước vào lớp 1 phải có vốn tiếng Việt và có kỹ năng tối thiểu khi sử dụngtiếng Việt: phát âm chuẩn, dùng từ ngữ phù hợp với nội dung, ngữ cảnh. Trẻ emchậm phát triển ngôn ngữ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc lĩnh hội kiến thức, hìnhthành các kỹ năng và từ đó thiếu niềm tin vào hoạt động học tập dẫn đến chán học,bỏ học. Sự non yếu về tiếng Việt sẽ làm hạn chế về giao tiếp của các em trong sinhhoạt ở nhà trường, gia đình và cộng đồng. Trước khi đến trường, vốn từ và các kỹnăng giao tiếp của trẻ chủ yếu được hình thành qua thói quen bắt chước. Hìnhthành ngôn ngữ theo hướng này tuy có nhiều yếu tố không chuẩn mực nhưng lạirất bền vững. Ngược lại, khi đến trường, vốn từ của trẻ được hình thành thông quacon đường giáo dục bài bản. Điều này sẽ đảm bảo các chuẩn mực nhưng lại thiếutính tự nhiên của lời nói nên hình thành chậm và không bền vững. Ngôn ngữ là công cụ của tư duy, trẻ dân tộc thiểu số có thể tư duy bằng ngônngữ là tiếng mẹ đẻ của chúng, nhưng để học lên chương trình phổ thông, trẻ phảicó vốn tiếng Việt để có thể hiểu biết và khám phá thế giới xung quanh (về các sựvật, hiện tượng gần gũi trong cuộc sống, hoạt động học tập…). Vì vậy, vấn đề tăng cường tiếng Việt cho trẻ em người dân tộc thiểu số là mộtnhiệm vụ được Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) và UBND tỉnh Nghệ An hếtsức quan tâm. Trong nhiệm vụ năm học 2009-2010 của Bộ GD&ĐT ghi rõ: “Cácđịa phương phát huy sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp giáo d ục mầm non(GDMN), xây dựng tài liệu tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số phù hợpđiều kiện kinh tế - xã hội và văn hóa của từng địa phương, làm tốt việc chuẩn bịtiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trước khi vào tiểu học”. II. Thực trạng và giải pháp Nghệ An là một tỉnh có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống (35/53 dân tộc trong cảnước), mỗi dân tộc có ngôn ngữ riêng của mình. Phần đông trẻ em người dân tộcthiểu số biết rất ít tiếng Việt, thậm chí có em không biết. Khi tới trường, các emphải học tập và tiếp nhận sự giáo dục bằng tiếng Việt nên gặp rất nhiều khó khăn. Đội ngũ giáo viên mầm non ở các huyện vùng cao Nghệ An đa số là giáo viênmiền xuôi lên công tác nên không biết tiếng dân tộc. Sự bất đồng ngôn ngữ giữacô và trẻ làm hạn chế việc tổ chức các hoạt động tăng cường tiếng Việt cho trẻ.Bên cạnh đó, môi trường ngôn ngữ của trẻ ở gia đình chủ yếu là tiếng mẹ đẻ. Bốmẹ các cháu do nhận thức và điều kiện sống còn nhiều hạn chế, vốn tiếng Việtkhông nhiều nên chưa quan tâm đến việc dạy nói tiếng Việt cho trẻ. Đội ngũ giáoviên người dân tộc hầu hết có trình độ đào tạo hệ 9+2, hình thức đào tạo khôngchính quy, tuổi đời cao, khả năng tiếp nhận những vấn đề đổi mới của bậc học gặprất nhiều khó khăn. Để chuẩn bị các điều kiện cho trẻ vào lớp 1 phổ thông, trong những năm qua,GDMN Nghệ An đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm tăng cường tiếng Việt cho trẻmầm non người dân tộc thiểu số: - Năm học 2007-2008, Phòng GDMN - Sở GD&ĐT Nghệ An đã biên soạn tàiliệu “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non người dân tộc thiểu số” và trực tiếpmở 2 lớp bồi dưỡng cho 300 cán bộ quản lý và giáo viên dạy lớp mẫu giáo 5 tuổivùng dân tộc thiểu số tại 2 huyện Con Cuông và Quỳ Châu. - Năm học 2008-2009, Sở GD&ĐT Nghệ An tiếp tục mở 5 lớp tại 5 huyện vùngcao bồi dưỡng cho 500 giáo viên mẫu giáo dạy trẻ người dân tộc thiểu số. - Tổ chức hội thi “Tạo môi trường cho trẻ học tập ở trong và ngoài nhóm, lớp”đã thu hút được sự tham gia của nhiều giáo viên, phụ huynh và các đoàn thể… tạora nhiều đồ dùng, đồ chơi, thiết bị dạy học, cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹphấp dẫn trẻ, tạo cơ hội, điều kiện cho trẻ tăng cường tiếng Việt, mở rộng hiểu biết. - Tổ chức hội thảo “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non vùng dân tộc thiểusố” các huyện vùng cao tỉnh Nghệ An. Tại hội thảo, cán bộ quản lý và giáo viêncủa các huyện vùng cao Nghệ An đã đóng góp nhiều ý kiến, giải pháp và bài họckinh nghiệm quý báu về: Công tác quản lý, chỉ đạo, tham mưu, xã hội hóa giáodục, tuyên truyền vận động phụ huynh và các đoàn thể, chính quyền địa phương...để tăng cường cơ sở vật chất và các điều kiện đồ dùng, đồ chơi, học liệu cho trẻhoạt động; công tác tổ chức các hoạt động “bán trú dân nuôi”, “lễ hội”… phù hợpvới các trường mầm non ở vùng cao, xóa bỏ những tập tục thói quen của địaphương làm ảnh hưởng đến việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ; Đổi mới trongviệc tạo môi trường giáo dục, kích thích và tạo cơ hội cho trẻ tích cực khám phá,thử nghiệm và sáng tạo ở các hoạt động giao tiếp tiếng Việt; Vận dụng linh hoạt,sáng tạo các phương pháp, hình thức tổ chức, lựa chọn nội dung tăng cường tiếngViệt cho trẻ một cách phù hợp. Nhìn chung, chất lượng dạy và học tiếng Việt nói riêng ở các huyện miền núi,nhất là vùng cao có nhiều chuyển biến tích cực nhưng vẫn đang là vấn đề quantâm không chỉ của ngành giáo dục mà của cả xã hội. Do đó, việc tìm ra những giảipháp nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Việt ch ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: