Báo cáo nghiên cứu khoa học Từ những đề nghị cải cách giáo dục của Nguyễn Trường Tộ - Suy nghĩ về giáo dục hiện nay
Số trang: 10
Loại file: pdf
Dung lượng: 203.38 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trong 58 bản điều trần mà Linh mục Trương Bá Cần đã tập hợp dịch và in trong cuốn Nguyễn Trường Tộ - Con người và di thảo (Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 1988, tái bản 2002), Nguyễn Trường Tộ đã đề nghị cải cách đất nước trên hầu khắp các lĩnh vực: kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, tài chính); văn hoá (giáo dục, ngôn ngữ); xã hội (cải thiện đời sống); chính trị - quân sự (nội trị, ngoại giao, quốc phòng). ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Báo cáo nghiên cứu khoa học " Từ những đề nghị cải cách giáo dục của Nguyễn Trường Tộ - Suy nghĩ về giáo dục hiện nay" Từ những đề nghị cải cách giáo dục của Nguyễn Trường Tộ - Suy nghĩ về giáo dục hiện nay Trong 58 bản điều trần mà Linh mục Trương Bá Cần đã tập hợp dịch và in trong cuốn Nguyễn Trường Tộ - Con người và di thảo (Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 1988, tái bản 2002), Nguyễn Trường Tộ đã đề nghị cải cách đất nước trên hầu khắp các lĩnh vực: kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, tài chính); văn hoá (giáo dục, ngôn ngữ); xã hội (cải thiện đời sống); chính trị - quân sự (nội trị, ngoại giao, quốc phòng). Bài viết này xin bày tỏ một số suy nghĩ nhân đọc về các đề nghị cải cách giáo dục của Nguyễn Trường Tộ được ông trình bày qua 2 bản điều trần: Di thảo số 18: Về việc học thực dụng ngày 1/9/1866 và Di thảo số 27: Tế cấp bát điều (Tám điều cần làm gấp) ngày 15/11/1867, chủ yếu là Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) sống một cuộc đời ngắn ngủi trong bối cảnh lịch sử đầy sóng gió. Lúc ông đến tuổi trưởng thành cũng là lúc đất nước phải đối mặt với cuộc xâm lăng của thực dân Pháp - một kẻ thù đến từ phía trời Tây xa xôi, lại hơn ta cả một giai đoạn phát triển xét từ kết cấu kinh tế đến tổ chức xã hội, từ những ưu thế quân sự, chính trị đến những thành tựu văn hoá, tư tưởng. Trong khi nước Pháp đang ở thời kỳ phát triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất thì nước ta dưới triều Nguyễn vẫn đang im lìm trong đêm trường phong kiến chuyên chế phương Đông với hệ tư tưởng Nho giáo lỗi thời, với nền giáo dục khoa cử Tống Nho giáo điều, bảo thủ. Các bộ sách Tứ thư, Ngũ kinh, Bắc sử… từ thuở xa xưa vẫn là sách gối đầu giường của trí thức Nho sĩ - tầng lớp tinh hoa của dân tộc. Trước Nguyễn Trường Tộ, ở nước ta có Hồ Quý Ly (1336-?) và Lê Quý Đôn (1726-1784) đã từng phê phán lối giáo dục khoa cử Tống Nho phù phiếm, không liên quan tới cuộc sống. Lê Quý Đôn đã có dịp tiếp xúc với một ít sách vở phương Tây qua bản dịch Hán văn và cho rằng kiến thức ở các sách đó “sâu sắc và mới lạ vô cùng… có nhiều điều tiên nho ta chưa tìm ra, nói ra được” (Vân Đài loại ngữ - chương Lý khí)(1). Trong Kiến văn tiểu lục, quyển 2 Thể lệ thượng, mục Khoa cử, Lê Quý Đôn lại viết: “…đặt ra khoa cử, tuy có thi từ, phú, sách, luận, thể thì văn hoa, thể thì chất thực, thể chế khác nhau, nhưng tóm lại chỉ là dùng lời nói suông để chọn người, mà người ta cũng dùng lời nói suông để ứng đối lại, thực ra thì đến khi thi thố ra việc làm vẫn không phải những điều ấy. Vả chăng căn cứ vào văn chương trong mấy bài thi nơi trường ốc, chỉ biết sơ lược, đại khái, làm gì mà có thể xem xét hết được nhân tài?”(2). Đáng tiếc tiếng nói của Hồ Quý Ly, Lê Quý Đôn thật lẻ loi, cơ hồ không có lời đáp lại. Phải đến nửa sau thế kỷ XIX, khi ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ lần lượt mất vào tay thực dân Pháp, khi nền giáo dục khoa cử Nho học và hệ tư tưởng Nho giáo tỏ ra hoàn toàn bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử thì mới có một loạt các bản điều trần gửi đến triều đình Huế xin đổi mới đất nước, trong đó có những tiếng nói phê phán mạnh mẽ nền giáo dục giáo điều. Vượt lên trên tất cả là các bản điều trần phong phú, táo bạo và hết sức mới mẻ của Nguyễn Trường Tộ. Từ nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của giáo dục “học tập bồi dưỡng nhân tài tức là con đường rộng lớn để đi đến giàu mạnh” (Về cái học thực dụng), “không có một nền học thuật sáng suốt thì phong tục sẽ ngày một bại hoại, lòng người sẽ ngày một giả dối, phù phiếm, trống rỗng” (Tế cấp bát điều), Nguyễn Trường Tộ đã phê phán nền giáo dục Tống Nho hiện hành mạnh mẽ. Trước hết là phê phán quan niệm xưa hơn nay. Trong Tế cấp bát điều có đoạn: “…người đời nay phần nhiều không hiểu được sự thế xưa nay đổi dời ra sao, cứ ca tụng thời xưa, cho rằng đời sau không thể bằng được. Làm gì họ cũng muốn đi ngược theo xưa…”. Lập luận của ông thật rõ ràng “Thời đại nào có chế độ ấy. Con người sinh ra vào thời đại nào thì cũng chỉ đủ làm công việc của thời đại ấy mà thôi. Vậy thì người sinh vào thời xưa làm xong công việc của thời xưa. Rồi dần dần thời thế đổi dời làm sao có thể chỉ mỗi ôm giữ phép xưa mãi được. Người xưa làm cung tên để đánh giặc, sử dụng giỏi có thể thắng. Nhưng nay đem địch với đại pháo thì cung tên chỉ là trò chơi con nít mà thôi. Cho dẫu có tài bắn hay cũng khó tránh thua bại”. Tiếp đó ông chỉ trích lối học không đi đôi với thực hành, “…Ngày nay, chúng ta lúc nhỏ thì học văn, từ, thơ, phú, lớn lên ra làm quan thì lại luật, lịch, binh, hình. Lúc nhỏ học nào là Sơn Đông, Sơn Tây mắt chưa từng thấy, lớn lên thì đến Nam Kỳ, Bắc Kỳ. Lúc nhỏ thì học nào là thiên văn, địa lý, chính sự, phong tục tận bên Tàu (mà nay họ đã sửa đổi hết rồi), lớn lên ra làm quan thì phải dùng đến địa lý, thiên văn, chính sự, phong tục của nước Nam, hoàn toàn khác hẳn…”. Cuối cùng, Nguyễn Trường Tộ đòi hỏi thay thế nền giáo dục đó bằng một nền giáo dục thiết thực. Lời lẽ của ông thật thiết tha: “Nếu để công phu trau dồi văn hay, chữ tốt đó mà học những công việc hiện tại như học trận đồ binh pháp, học xây thành giữ nước, học cách bắn đại bác… cũng có thể chống được giặc vậy. Nếu để công lao trong mấy mươi năm đọc thuộc lòng những tên người, tên xứ, những chính sự trong sách, nghĩa lý lộn xộn của Ngu, Hạ, Thương, Chu, Hán, Đường, Tống, Nguyên thuở trước mà học những công việc hiện tại như học việc binh, việc hình, luật lệ, tài chính, kiến trúc, canh cửi, cấy cày và các cái mới lạ khác mới có thể làm cho nước mạnh, dân giàu được” (Tế cấp bát điều). Như vậy, nếu phê phán của Hồ Quý Ly, Lê Quý Đôn chỉ mới là những hành động cải lương nhằm làm cho giáo dục, khoa cử Nho học phù hợp hơn với nhu cầu thực tế đương thời, thì phê phán của Nguyễn Trường Tộ là sự phê phán quyết liệt, nhằm xoá bỏ hẳn nền giáo dục đó, thay vào đó bằng một nền giáo dục mới hiện đại theo kiểu phương Tây. Hay nói theo cách nói của ông là một nền giáo dục có “việc học thực dụng”. Đáng tiếc là những phê phán đúng đắn như thế cùng với các đề nghị ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Báo cáo nghiên cứu khoa học " Từ những đề nghị cải cách giáo dục của Nguyễn Trường Tộ - Suy nghĩ về giáo dục hiện nay" Từ những đề nghị cải cách giáo dục của Nguyễn Trường Tộ - Suy nghĩ về giáo dục hiện nay Trong 58 bản điều trần mà Linh mục Trương Bá Cần đã tập hợp dịch và in trong cuốn Nguyễn Trường Tộ - Con người và di thảo (Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 1988, tái bản 2002), Nguyễn Trường Tộ đã đề nghị cải cách đất nước trên hầu khắp các lĩnh vực: kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, tài chính); văn hoá (giáo dục, ngôn ngữ); xã hội (cải thiện đời sống); chính trị - quân sự (nội trị, ngoại giao, quốc phòng). Bài viết này xin bày tỏ một số suy nghĩ nhân đọc về các đề nghị cải cách giáo dục của Nguyễn Trường Tộ được ông trình bày qua 2 bản điều trần: Di thảo số 18: Về việc học thực dụng ngày 1/9/1866 và Di thảo số 27: Tế cấp bát điều (Tám điều cần làm gấp) ngày 15/11/1867, chủ yếu là Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) sống một cuộc đời ngắn ngủi trong bối cảnh lịch sử đầy sóng gió. Lúc ông đến tuổi trưởng thành cũng là lúc đất nước phải đối mặt với cuộc xâm lăng của thực dân Pháp - một kẻ thù đến từ phía trời Tây xa xôi, lại hơn ta cả một giai đoạn phát triển xét từ kết cấu kinh tế đến tổ chức xã hội, từ những ưu thế quân sự, chính trị đến những thành tựu văn hoá, tư tưởng. Trong khi nước Pháp đang ở thời kỳ phát triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất thì nước ta dưới triều Nguyễn vẫn đang im lìm trong đêm trường phong kiến chuyên chế phương Đông với hệ tư tưởng Nho giáo lỗi thời, với nền giáo dục khoa cử Tống Nho giáo điều, bảo thủ. Các bộ sách Tứ thư, Ngũ kinh, Bắc sử… từ thuở xa xưa vẫn là sách gối đầu giường của trí thức Nho sĩ - tầng lớp tinh hoa của dân tộc. Trước Nguyễn Trường Tộ, ở nước ta có Hồ Quý Ly (1336-?) và Lê Quý Đôn (1726-1784) đã từng phê phán lối giáo dục khoa cử Tống Nho phù phiếm, không liên quan tới cuộc sống. Lê Quý Đôn đã có dịp tiếp xúc với một ít sách vở phương Tây qua bản dịch Hán văn và cho rằng kiến thức ở các sách đó “sâu sắc và mới lạ vô cùng… có nhiều điều tiên nho ta chưa tìm ra, nói ra được” (Vân Đài loại ngữ - chương Lý khí)(1). Trong Kiến văn tiểu lục, quyển 2 Thể lệ thượng, mục Khoa cử, Lê Quý Đôn lại viết: “…đặt ra khoa cử, tuy có thi từ, phú, sách, luận, thể thì văn hoa, thể thì chất thực, thể chế khác nhau, nhưng tóm lại chỉ là dùng lời nói suông để chọn người, mà người ta cũng dùng lời nói suông để ứng đối lại, thực ra thì đến khi thi thố ra việc làm vẫn không phải những điều ấy. Vả chăng căn cứ vào văn chương trong mấy bài thi nơi trường ốc, chỉ biết sơ lược, đại khái, làm gì mà có thể xem xét hết được nhân tài?”(2). Đáng tiếc tiếng nói của Hồ Quý Ly, Lê Quý Đôn thật lẻ loi, cơ hồ không có lời đáp lại. Phải đến nửa sau thế kỷ XIX, khi ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ lần lượt mất vào tay thực dân Pháp, khi nền giáo dục khoa cử Nho học và hệ tư tưởng Nho giáo tỏ ra hoàn toàn bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử thì mới có một loạt các bản điều trần gửi đến triều đình Huế xin đổi mới đất nước, trong đó có những tiếng nói phê phán mạnh mẽ nền giáo dục giáo điều. Vượt lên trên tất cả là các bản điều trần phong phú, táo bạo và hết sức mới mẻ của Nguyễn Trường Tộ. Từ nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của giáo dục “học tập bồi dưỡng nhân tài tức là con đường rộng lớn để đi đến giàu mạnh” (Về cái học thực dụng), “không có một nền học thuật sáng suốt thì phong tục sẽ ngày một bại hoại, lòng người sẽ ngày một giả dối, phù phiếm, trống rỗng” (Tế cấp bát điều), Nguyễn Trường Tộ đã phê phán nền giáo dục Tống Nho hiện hành mạnh mẽ. Trước hết là phê phán quan niệm xưa hơn nay. Trong Tế cấp bát điều có đoạn: “…người đời nay phần nhiều không hiểu được sự thế xưa nay đổi dời ra sao, cứ ca tụng thời xưa, cho rằng đời sau không thể bằng được. Làm gì họ cũng muốn đi ngược theo xưa…”. Lập luận của ông thật rõ ràng “Thời đại nào có chế độ ấy. Con người sinh ra vào thời đại nào thì cũng chỉ đủ làm công việc của thời đại ấy mà thôi. Vậy thì người sinh vào thời xưa làm xong công việc của thời xưa. Rồi dần dần thời thế đổi dời làm sao có thể chỉ mỗi ôm giữ phép xưa mãi được. Người xưa làm cung tên để đánh giặc, sử dụng giỏi có thể thắng. Nhưng nay đem địch với đại pháo thì cung tên chỉ là trò chơi con nít mà thôi. Cho dẫu có tài bắn hay cũng khó tránh thua bại”. Tiếp đó ông chỉ trích lối học không đi đôi với thực hành, “…Ngày nay, chúng ta lúc nhỏ thì học văn, từ, thơ, phú, lớn lên ra làm quan thì lại luật, lịch, binh, hình. Lúc nhỏ học nào là Sơn Đông, Sơn Tây mắt chưa từng thấy, lớn lên thì đến Nam Kỳ, Bắc Kỳ. Lúc nhỏ thì học nào là thiên văn, địa lý, chính sự, phong tục tận bên Tàu (mà nay họ đã sửa đổi hết rồi), lớn lên ra làm quan thì phải dùng đến địa lý, thiên văn, chính sự, phong tục của nước Nam, hoàn toàn khác hẳn…”. Cuối cùng, Nguyễn Trường Tộ đòi hỏi thay thế nền giáo dục đó bằng một nền giáo dục thiết thực. Lời lẽ của ông thật thiết tha: “Nếu để công phu trau dồi văn hay, chữ tốt đó mà học những công việc hiện tại như học trận đồ binh pháp, học xây thành giữ nước, học cách bắn đại bác… cũng có thể chống được giặc vậy. Nếu để công lao trong mấy mươi năm đọc thuộc lòng những tên người, tên xứ, những chính sự trong sách, nghĩa lý lộn xộn của Ngu, Hạ, Thương, Chu, Hán, Đường, Tống, Nguyên thuở trước mà học những công việc hiện tại như học việc binh, việc hình, luật lệ, tài chính, kiến trúc, canh cửi, cấy cày và các cái mới lạ khác mới có thể làm cho nước mạnh, dân giàu được” (Tế cấp bát điều). Như vậy, nếu phê phán của Hồ Quý Ly, Lê Quý Đôn chỉ mới là những hành động cải lương nhằm làm cho giáo dục, khoa cử Nho học phù hợp hơn với nhu cầu thực tế đương thời, thì phê phán của Nguyễn Trường Tộ là sự phê phán quyết liệt, nhằm xoá bỏ hẳn nền giáo dục đó, thay vào đó bằng một nền giáo dục mới hiện đại theo kiểu phương Tây. Hay nói theo cách nói của ông là một nền giáo dục có “việc học thực dụng”. Đáng tiếc là những phê phán đúng đắn như thế cùng với các đề nghị ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
nghiên cứu khoa học kinh tế xã hội tỉnh Nghệ an công nghệ khoa học lãnh thổ Việt namGợi ý tài liệu liên quan:
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Kỹ năng quản lý thời gian của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội
80 trang 1545 4 0 -
Tiểu luận: Phương pháp Nghiên cứu Khoa học trong kinh doanh
27 trang 487 0 0 -
57 trang 336 0 0
-
33 trang 326 0 0
-
95 trang 267 1 0
-
Tiểu luận môn Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học Thiên văn vô tuyến
105 trang 265 0 0 -
Phương pháp nghiên cứu trong kinh doanh
82 trang 262 0 0 -
Tóm tắt luận án tiến sỹ Một số vấn đề tối ưu hóa và nâng cao hiệu quả trong xử lý thông tin hình ảnh
28 trang 219 0 0 -
29 trang 218 0 0
-
4 trang 211 0 0