Danh mục

Báo cáo tài chính và trách nhiệm của kiểm toán độc lập

Số trang: 3      Loại file: docx      Dung lượng: 14.49 KB      Lượt xem: 19      Lượt tải: 0    
Jamona

Phí tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (3 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Việc nhiều doanh nghiệp niêm yết thời gian qua có vấn đề liên quan đến sai lệch thông tin trên báo cáo tài chính sau khi có kiểm tra, thanh tra của các cơ quan có thẩm quyền, mặc dù trước đó các báo cáo tài chính này đã được kiểm toán độc lập xác nhận khiến dư luận đặt câu hỏi về trách nhiệm của đơn vị kiểm toán độc lập như thế nào với những sai lệch này? Bà Hà Thu Thanh, Phó Chủ tịch Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) đã chia sẻ về vấn đề trên qua bài viết dưới đây, mời các bạn cùng tham khảo.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Báo cáo tài chính và trách nhiệm của kiểm toán độc lập BÁO CÁO TÀI CHÍNH VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA  KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP Việc nhiều doanh nghiệp niêm yết thời gian qua có vấn đề liên quan đến sai lệch thông  tin trên báo cáo tài chính sau khi có kiểm tra, thanh tra của các cơ quan có thẩm quyền,  mặc dù trước đó các báo cáo tài chính này đã được kiểm toán độc lập xác nhận khiến   dư  luận đặt câu hỏi về  trách nhiệm của đơn vị  kiểm toán độc lập như  thế  nào với   những sai lệch này? Bà Hà Thu Thanh, Phó Chủ  tịch Hội Kiểm toán viên hành nghề  Việt Nam (VACPA) đã chia sẻ với Báo Đầu tư Chứng khoán về vấn đề trên. Trong kiểm toán độc lập, Không áp dụng khái niệm “chính xác” Bàn về việc lập và trình bày báo cáo tài chính được công bố, trước tiên phải khẳng định là   trách nhiệm của doanh nghiệp. Nội dung này được quy định rõ tại Điều 5, Điều 6 và Điều 39  của Luật Kế toán số 88/2015/QH13 ban hành ngày 20/11/2015. Các kiểm toán viên độc lập thực hiện công việc kiểm toán báo cáo tài chính nhằm mục đích  đưa ra ý kiến đánh về tính trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu của báo cáo tài  chính   của   đơn   vị   được   kiểm   toán   theo   quy   định   của   Luật   Kiểm   toán   độc   lập   số  67/2011/QH12 ban hành ngày 29/3/2011. Theo quy định trong các chuẩn mực kiểm toán độc lập của Việt Nam, khi tiến hành kiểm   toán báo cáo tài chính của doanh nghiệp, kiểm toán viên thực hiện các thủ tục kiểm toán dựa  trên xét đoán, đánh giá rủi ro của kiểm toán viên và kiểm tra trên cơ sở chọn mẫu. Kiểm toán viên thực hiện việc kiểm tra trên cơ  sở  chọn mẫu các các tài liệu, chứng từ  kế  toán do doanh nghiệp cung cấp để  thu thập các bằng chứng kiểm toán đầy đủ  và thích hợp  cho việc đưa ra ý kiến kiểm toán. Dựa trên các bằng chứng kiểm toán thu thập được, kiểm  toán viên đánh giá báo cáo tài chính đó có phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh  trọng yếu theo các chuẩn mực kế toán hiện hành hay không.  Nếu các doanh nghiệp cung cấp các tài liệu không đủ, kiểm toán viên có quyền được yêu cầu  cung cấp thêm các tài liệu. Tuy nhiên, việc cung cấp thêm hoặc từ  chối cung cấp tùy thuộc  vào quyết định của doanh nghiệp được kiểm toán. Khi doanh nghiệp cung cấp đúng và đủ tài  liệu, chứng từ kế toán thì kiểm toán viên có cơ  sở  đúng để  đưa ra ý kiến kiểm toán về  tính   trung thực, hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu của báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Trong những trường hợp doanh nghiệp cung cấp không đủ  hoặc từ  chối cung cấp thêm tài  liệu thuộc phạm vi thẩm quyền của doanh nghiệp, phạm vi công việc kiểm toán sẽ  bị  ảnh   hưởng và kiểm toán viên độc lập sẽ phải đưa ra ý kiến ngoại trừ trên báo cáo kiểm toán do   hạn chế phạm vi kiểm toán. Nếu phạm vi kiểm toán bị ảnh hưởng lớn, kiểm toán viên sẽ đưa ra các ý kiến từ chối nhận   xét về tính trung thực và hợp lý của các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Trong khi đó, các  cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền yêu cầu bắt buộc doanh nghiệp cung cấp tất cả  các tài liệu có liên quan đến toàn bộ hoạt động sản xuất ­ kinh doanh của doanh nghiệp khi   tiến hành kiểm tra, thanh tra. Trong nhiều trường hợp, họ  có thẩm quyền được thu thập   thông tin, tài liệu từ  các nguồn khác ngoài doanh nghiệp, để  làm hồ  sơ  và đối chứng với  những hồ sơ do doanh nghiệp cung cấp. Có thể nói, điểm khác biệt căn bản về  cơ sở của ý kiến kiểm toán độc lập với các báo cáo  tài chính được kiểm toán xuất phát từ yếu tố kỹ thuật kiểm toán là chọn mẫu kiểm toán và  dựa trên phạm vi các chứng từ và tài liệu được doanh nghiệp kiểm toán cung cấp. Cần hiểu đúng về trách nhiệm của kiểm toán viên Khi có sự  sai lệch thông tin trong báo cáo tài chính đã công bố, trách nhiệm giải trình trước  hết là của doanh nghiệp. Như  đã trình bày  ở  trên, kiểm toán viên độc lập có trách nhiệm đưa ra ý kiến về  tính trung   thực, hợp lý về các khía cạnh trọng yếu của báo cáo tài chính. Do đó, kiểm toán viên độc lập   chỉ có thể trả lời về các thủ tục kiểm toán đã thực hiện nhằm làm cơ sở đưa ra ý kiến kiểm   toán. Trên thực tế, kiểm toán viên độc lập khó có thể phát hiện hết được những gian lận (nếu có)   mà doanh nghiệp đã hợp lý hóa bằng những chứng từ, hợp đồng kinh tế. Các quyết định đầu   tư, quyết định kinh doanh của doanh nghiệp đúng hay sai cũng không thuộc phạm vi của   kiểm toán viên độc lập. Việc ngăn ngừa và phát hiện sai sót gian lận trước hết thuộc về trách nhiệm của ban giám  đốc doanh nghiệp và ban quản trị  doanh nghiệp. Chính phủ  cũng đã ban hành Nghị  định  105/2013/NĐ­CP ngày 16/9/2013 về  quy định xử  phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế  toán để nhằm nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp và ngăn ngừa những gian lận phát sinh  trong quá trình lập và trình bày thông tin trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp Theo chuẩn mực kiểm toán số  240, trách nhiệm của kiểm toán viên liên quan đến gian lận   trong quá trình kiểm toán báo cáo tài chính. Nhưng chuẩn mực này cũng nêu rõ, do những hạn   chế v ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: