Báo cáo: Thực trạng và một số kiến nghị để phát triển môn thể dục nghệ thuật tại Việt Nam
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 323.79 KB
Lượt xem: 6
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Báo cáo: Thực trạng và một số kiến nghị để phát triển môn thể dục nghệ thuật tại Việt Nam nhằm đánh giá thực trạng phát triển môn thể dục nghệ thuật của Việt Nam và đề xuất một số kiến nghị góp phần phát triển môn Thể dục Nghệ thuật của Việt Nam trong những năm tiếp theo.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Báo cáo: Thực trạng và một số kiến nghị để phát triển môn thể dục nghệ thuật tại Việt NamTHỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỂ PHÁT TRIỂN MÔN THỂ DỤC NGHỆ THUẬ TẠI VIỆT NAM Nguyễn Thị Lý Tóm tắt: Tổng kết kết quả thi đấu các môn Thể dục nghệ thuật giải học sinh sinh viên Đông Nam Á hai năm 2011 và 2012 nhằm đánh giá thực trạng phát triển môn thể dục nghệ thuật của Việt Nam và đề xuất một số kiến nghị góp phần phát triển môn Thể dục Nghệ thuật của Việt Nam trong những năm tiếp theo. TỪ KHÓA: thể dục nghệ thuật, thực trạng, phát triển Abstract: This study summarized performance achievements of Southeast Asian student games of Rhythmic Gymnastics in the years of 2011 and 2012 in order to assess the current status of its development in Vietnam and recommend ideas for future improvement of this sport. KEYWORDS: Rhythmic Gymnastics, current status, development I. ĐẶT VẤN ĐỀ Thể dục nghệ thuật (TDNT) – môn thể thao dành riêng cho phụ nữ, bao gồm những bài tập phát triển vóc dáng cân đối, hài hòa phù hợp với hình thái, tâm sinh lý của phụ nữ. Đặc biệt giáo dục tính thẩm mỹ học, nhận biết cái đẹp hình thức, âm nhạc, bài tập, vũ điệu với nhạc có thể sử dụng cho từ lứa tuổi thiếu nhi đến người lớn tuổi. Giống như các môn thể thao khác, TDNT cũng trải qua những bài tập sơ khai từ bước đi đầu tiên trong lịch sử phát triển của riêng mình. Nhà vật lý – giáo dục người Pháp Georges Demeny (1850-1917) đã chứng mình: ưu thế hệ của hệ thống bài tập căng duỗi cơ, kết hợp với vũ đạo, dụng cụ (chùy, bóng, khăn voan, cờ…) nâng cao khả năng phát triển các tố chất thể lực như: độ dẻo, khéo léo, dáng vóc mềm mại, uyển chuyển đặc trưng của nữ giới. Một trong những người có công rất lớn trong sự hình thành và phát triển môn TDNT phải nói đến nhà giáo dục người Pháp Francois Delsarte (1811-1971) ông đã đưa hệ thống bài tập kết hợp với nhạc đệm vào tập luyện. Ý tưởng của ông được vũ công nổi tiếng Isadora Duncan (1878-1927) kế thừa đã hình thành nên môn TDNT hiện đại. Cuối thế kỷ XIX đầu XX, thể dục nhip điệu thịnh hành rộng rãi, một trong những nhóm động tác: chuyển động nhịp điệu, bài tập luyện âm, và nhạc cảm. Ba nhóm động tác này giúp người tập hoàn thiện khả năng cảm thụ âm nhạc. Lúc đầu TDNT được giới nghệ sĩ2và nhạc công sử dụng nhiều, sau đó mới đưa vào lĩnh vực giáo dục thể chất. Khi đó môn thể thao này chỉ là những bài tập có tính tập thể mang dáng dấp phong trào nâng cao sức khỏe cho nữ giới, phát triển mạnh ở một số nước như: Liên xô (cũ), Hungary, Tiệp Khắc, Tây Ban Nha,… Trải qua chặng đường phát triển, TDNT trở thành môn thể thao mang tính chuyên nghiệp. Giải vô địch quốc gia đầu tiên tại Liên Xô cũ vào năm 1942. Đến năm 1961 Liên đoàn Thể dục Thế giới (FIG) đã soạn thảo và ban hành bộ luật thi đấu cho các giải tầm cỡ thế giới và châu lục. Giải vô địch thế giới với nội dung cá nhân đầu tiên diễn ra vào năm 1963 tại Hungary với sự tham gia của 28 vận động viên (VĐV) đến từ 10 nước châu Âu. Năm 1984, thể dục nghệ thuật trở thành môn thi đấu Olympic tại Moscow – Liên Xô cũ, và liên tục mở rộng và phát triển đến nay trở thành môn thi đấu không thể thiếu trong các giải châu lục và thế giới.. II. THỰC TRẠNG TRÌNH ĐỘ VĐV MÔN TDNT HIỆN NAY TẠI VIỆT NAM Vào những năm 1985 và 1989 môn TDNT chính thức có mặt tại Việt Nam với sự dẫn dắt của các chuyên gia Bulgary, một đất nước với những bài thi đấu mang đậm nét nghệ thuật mềm mại, đặc sắc với nền nhạc mang âm hưởng dân gian kết hợp với vũ đạo tuyệt vời. Lứa vận động viên đầu tiên ra đời tại Hà Nội. Nhận thấy đây là môn thể thao có vị trí quan trọng trong việc giành huy chương (thi đấu toàn năng, đơn môn,…) điều mà nước ta cần có để nâng cao thứ bậc của mình trên đấu trường khu vực và châu lục. Tại Hội nghị tổng kết ngành TDTT thành tích cao năm 1998-1999 ủy ban TDTT đã xác định TDNT là một trong những môn thể thao trọng điểm, phải ưu tiên phát triển. Năm 1990 để xây dựng lực lượng vận động viên đủ năng lực tham gia SEA Games 22 tại Việt Nam, bộ môn thể dục – Tổng cục Thể dục thể thao đã kết hợp với chuyên gia trong nước tuyển chọn và huấn luyện đội tuyển quốc gia đầu tiên của Việt Nam. Năm 2001 lần đầu tiên tham dự SEA Games 21 tại Malaysia (đấu trường lớn của khu vực) các vận động viên Việt Nam giành được 1 huy chương đồng ở nội dung đơn môn bài tập với dây. Để đánh giá thực trạng các vận động viên TDNT nước ta so với một số nước trong khu vực những năm gần đây, chúng tôi dựa trên thành tích thi dấu của các VĐV tham gia giải học sinh sinh viên Đông Nam Á năm 2011, đoàn Việt Nam có 03 VĐV tham dự: Kết quả các môn: Vòng, bóng, chùy, lụa được đánh giá theo phương thức tính điểm cho một số bài thi đấu như sau: Điểm độ khó (ký hiệu là D): 10 điểm Điểm nghệ thuật (ký hiệu là A): 10 điểm3Điểm thực hiện (ký hiệu là E): 10 điểm Kết quả của tất cả các VĐV đạt được như bảng 1,2,3 và 4. Nhận xét chung: Dựa vào các kết quả thi đấu trên ta nhận thấy: 1. Điểm độ khó của các VĐV Việt Nam quá thấp so với các VĐV khác trong khu vực Đông Nam Á. 2. Đ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Báo cáo: Thực trạng và một số kiến nghị để phát triển môn thể dục nghệ thuật tại Việt NamTHỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỂ PHÁT TRIỂN MÔN THỂ DỤC NGHỆ THUẬ TẠI VIỆT NAM Nguyễn Thị Lý Tóm tắt: Tổng kết kết quả thi đấu các môn Thể dục nghệ thuật giải học sinh sinh viên Đông Nam Á hai năm 2011 và 2012 nhằm đánh giá thực trạng phát triển môn thể dục nghệ thuật của Việt Nam và đề xuất một số kiến nghị góp phần phát triển môn Thể dục Nghệ thuật của Việt Nam trong những năm tiếp theo. TỪ KHÓA: thể dục nghệ thuật, thực trạng, phát triển Abstract: This study summarized performance achievements of Southeast Asian student games of Rhythmic Gymnastics in the years of 2011 and 2012 in order to assess the current status of its development in Vietnam and recommend ideas for future improvement of this sport. KEYWORDS: Rhythmic Gymnastics, current status, development I. ĐẶT VẤN ĐỀ Thể dục nghệ thuật (TDNT) – môn thể thao dành riêng cho phụ nữ, bao gồm những bài tập phát triển vóc dáng cân đối, hài hòa phù hợp với hình thái, tâm sinh lý của phụ nữ. Đặc biệt giáo dục tính thẩm mỹ học, nhận biết cái đẹp hình thức, âm nhạc, bài tập, vũ điệu với nhạc có thể sử dụng cho từ lứa tuổi thiếu nhi đến người lớn tuổi. Giống như các môn thể thao khác, TDNT cũng trải qua những bài tập sơ khai từ bước đi đầu tiên trong lịch sử phát triển của riêng mình. Nhà vật lý – giáo dục người Pháp Georges Demeny (1850-1917) đã chứng mình: ưu thế hệ của hệ thống bài tập căng duỗi cơ, kết hợp với vũ đạo, dụng cụ (chùy, bóng, khăn voan, cờ…) nâng cao khả năng phát triển các tố chất thể lực như: độ dẻo, khéo léo, dáng vóc mềm mại, uyển chuyển đặc trưng của nữ giới. Một trong những người có công rất lớn trong sự hình thành và phát triển môn TDNT phải nói đến nhà giáo dục người Pháp Francois Delsarte (1811-1971) ông đã đưa hệ thống bài tập kết hợp với nhạc đệm vào tập luyện. Ý tưởng của ông được vũ công nổi tiếng Isadora Duncan (1878-1927) kế thừa đã hình thành nên môn TDNT hiện đại. Cuối thế kỷ XIX đầu XX, thể dục nhip điệu thịnh hành rộng rãi, một trong những nhóm động tác: chuyển động nhịp điệu, bài tập luyện âm, và nhạc cảm. Ba nhóm động tác này giúp người tập hoàn thiện khả năng cảm thụ âm nhạc. Lúc đầu TDNT được giới nghệ sĩ2và nhạc công sử dụng nhiều, sau đó mới đưa vào lĩnh vực giáo dục thể chất. Khi đó môn thể thao này chỉ là những bài tập có tính tập thể mang dáng dấp phong trào nâng cao sức khỏe cho nữ giới, phát triển mạnh ở một số nước như: Liên xô (cũ), Hungary, Tiệp Khắc, Tây Ban Nha,… Trải qua chặng đường phát triển, TDNT trở thành môn thể thao mang tính chuyên nghiệp. Giải vô địch quốc gia đầu tiên tại Liên Xô cũ vào năm 1942. Đến năm 1961 Liên đoàn Thể dục Thế giới (FIG) đã soạn thảo và ban hành bộ luật thi đấu cho các giải tầm cỡ thế giới và châu lục. Giải vô địch thế giới với nội dung cá nhân đầu tiên diễn ra vào năm 1963 tại Hungary với sự tham gia của 28 vận động viên (VĐV) đến từ 10 nước châu Âu. Năm 1984, thể dục nghệ thuật trở thành môn thi đấu Olympic tại Moscow – Liên Xô cũ, và liên tục mở rộng và phát triển đến nay trở thành môn thi đấu không thể thiếu trong các giải châu lục và thế giới.. II. THỰC TRẠNG TRÌNH ĐỘ VĐV MÔN TDNT HIỆN NAY TẠI VIỆT NAM Vào những năm 1985 và 1989 môn TDNT chính thức có mặt tại Việt Nam với sự dẫn dắt của các chuyên gia Bulgary, một đất nước với những bài thi đấu mang đậm nét nghệ thuật mềm mại, đặc sắc với nền nhạc mang âm hưởng dân gian kết hợp với vũ đạo tuyệt vời. Lứa vận động viên đầu tiên ra đời tại Hà Nội. Nhận thấy đây là môn thể thao có vị trí quan trọng trong việc giành huy chương (thi đấu toàn năng, đơn môn,…) điều mà nước ta cần có để nâng cao thứ bậc của mình trên đấu trường khu vực và châu lục. Tại Hội nghị tổng kết ngành TDTT thành tích cao năm 1998-1999 ủy ban TDTT đã xác định TDNT là một trong những môn thể thao trọng điểm, phải ưu tiên phát triển. Năm 1990 để xây dựng lực lượng vận động viên đủ năng lực tham gia SEA Games 22 tại Việt Nam, bộ môn thể dục – Tổng cục Thể dục thể thao đã kết hợp với chuyên gia trong nước tuyển chọn và huấn luyện đội tuyển quốc gia đầu tiên của Việt Nam. Năm 2001 lần đầu tiên tham dự SEA Games 21 tại Malaysia (đấu trường lớn của khu vực) các vận động viên Việt Nam giành được 1 huy chương đồng ở nội dung đơn môn bài tập với dây. Để đánh giá thực trạng các vận động viên TDNT nước ta so với một số nước trong khu vực những năm gần đây, chúng tôi dựa trên thành tích thi dấu của các VĐV tham gia giải học sinh sinh viên Đông Nam Á năm 2011, đoàn Việt Nam có 03 VĐV tham dự: Kết quả các môn: Vòng, bóng, chùy, lụa được đánh giá theo phương thức tính điểm cho một số bài thi đấu như sau: Điểm độ khó (ký hiệu là D): 10 điểm Điểm nghệ thuật (ký hiệu là A): 10 điểm3Điểm thực hiện (ký hiệu là E): 10 điểm Kết quả của tất cả các VĐV đạt được như bảng 1,2,3 và 4. Nhận xét chung: Dựa vào các kết quả thi đấu trên ta nhận thấy: 1. Điểm độ khó của các VĐV Việt Nam quá thấp so với các VĐV khác trong khu vực Đông Nam Á. 2. Đ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Đề tài nghiên cứu khoa học Nghiên cứu khoa học Báo cáo nghiên cứu khoa học Thể dục nghệ thuật Thực trạng thể dục nghệ thuật Giải pháp thể dục nghệ thuậtGợi ý tài liệu liên quan:
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Kỹ năng quản lý thời gian của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội
80 trang 1528 4 0 -
Tiểu luận: Phương pháp Nghiên cứu Khoa học trong kinh doanh
27 trang 474 0 0 -
57 trang 334 0 0
-
33 trang 311 0 0
-
95 trang 259 1 0
-
80 trang 255 0 0
-
Tiểu luận môn Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học Thiên văn vô tuyến
105 trang 254 0 0 -
Phương pháp nghiên cứu trong kinh doanh
82 trang 244 0 0 -
82 trang 220 0 0
-
Tóm tắt luận án tiến sỹ Một số vấn đề tối ưu hóa và nâng cao hiệu quả trong xử lý thông tin hình ảnh
28 trang 217 0 0