BỆNH BASEDOW LÀ GÌ? Năm 1835, bác sĩ người Mỹ Robert James Graves đã mô tả một loại bệnh bao gồm các triệu chứng tăng chuyển hóa, bướu giáp lan tỏa và lồi mắt. Một thời gian sau, vào năm 1840, Karl Aldoph Von Basedow đã nghiên cứu đầy đủ về bệnh này và từ đó bệnh được mang tên ông. Ở Việt Nam, người ta vẫn quen gọi Basedow là bệnh bướu cổ lồi mắt. Trong thực tế lâm sàng, bệnh Basedow thường có biểu hiện của hội chứng cường giáp: Bệnh nhân ăn nhiều, tinh thần bất ổn,...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
BỆNH BASEDOW, BAO GIỜ CẦN MỔ? BỆNH BASEDOW, BAO GIỜ CẦN MỔ?BỆNH BASEDOW LÀ GÌ?Năm 1835, bác sĩ người Mỹ Robert James Graves đã mô tả một loạibệnh bao gồm các triệu chứng tăng chuyển hóa, bướu giáp lan tỏa và lồimắt. Một thời gian sau, vào năm 1840, Karl Aldoph Von Basedow đãnghiên cứu đầy đủ về bệnh này và từ đó bệnh được mang tên ông. ỞViệt Nam, người ta vẫn quen gọi Basedow là bệnh bướu cổ lồi mắt.Trong thực tế lâm sàng, bệnh Basedow thường có biểu hiện của hộichứng cường giáp: Bệnh nhân ăn nhiều, tinh thần bất ổn, mất ngủ hoặckhó ngủ, sụt cân rất nhiều, run tay v.v... và kèm theo bướu giáp lan tỏa.Việc xác định chẩn đoán cần có sự thăm khám của các bác sĩ chuyênkhoa Nội tiết và Phẫu thuật Lồng ngực Tim mạch. Ngoài việc khám lâmsàng, cần phải làm thêm một số xét nghiệm chuyên biệt, trong đó quantrọng nhất là các xét nghiệm định lượng hormone tuyến giáp: T3, T4 &TSH. Trong một số trường hợp gặp khó khăn trong chẩn đoán, cần làmthêm xét nghiệm xạ hình và xạ ký tuyến giáp với iode đồng vị phóng xạ.NHỮNG AI THƯỜNG MẮC BỆNH BASEDOW?Basedow là một bệnh phổ biến trong các bệnh nội khoa nói chung và cácbệnh nội tiết nói riêng. Bệnh thường gặp ở mọi lứa tuổi, song phần lớnlà ở độ tuổi lao động, do đó ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe và năngsuất lao động của bệnh nhân.Ở các nước phương Tây như Mỹ, tỷ lệ người mắc bệnh chiếm từ 0,02-0,4% dân số, còn các vùng miền Bắc nước Anh tỷ lệ này lên đến 1%.Tại Việt Nam, tỷ lệ người mắc bệnh cũng khá cao, chiếm từ 10-39%những người có bướu giáp đến khám tại bệnh viện.Trong số những người bị bệnh có đến trên 80% là phụ nữ, đặc biệt làphụ nữ trẻ từ 21-30 tuổi. Ðiều này rất quan trọng trong vấn đề lựa chọnphương pháp điều trị.NGƯỜI BỆNH SẼ RA SAO NẾU KHÔNG ÐƯỢC ÐIỀU TRỊ?Bệnh Basedow rất nguy hiểm cho hệ tim mạch, nếu không được điều trịhoặc điều trị không đúng cách, bệnh nhân sẽ tử vong trong tình trạng suytim, suy kiệt và đặc biệt là trong tình trạng cơn bão giáp, một biến chứngrất nặng của bệnh.Khi bị cơn bão giáp, bệnh nhân sẽ sốt cao 40-410C, tinh thần hoảngloạn, lo lắng hoặc kích thích dữ dội, tim đập rất nhanh, có khi lên đếntrên 150 lần một phút hoặc bị rung thất.CÓ BAO NHIÊU PHƯƠNG PHÁP ÐIỀU TRỊ BASEDOW?Mặc dù đến nay, những hiểu biết về cơ chế bệnh sinh của Basedow đãtương đối rõ ràng, nhưng vẫn chưa có một loại thuốc hay phương phápđiều trị nào giải quyết được nguyên nhân sinh bệnh.Trong điều trị Basedow, chủ yếu vẫn là điều trị cường năng tuyến giápbằng một trong ba phương pháp căn bản: Ðiều trị nội khoa với thuốckháng giáp tổng hợp, điều trị bằng phẫu thuật và điều trị bằng iode đồngvị phóng xạ. Mỗi phương pháp điều trị đều có ưu và nhược điểm khácnhau. Việc lựa chọn phương pháp nào sẽ tùy thuộc vào tình hình bệnhtật, điều kiện xã hội, hoàn cảnh cụ thể của mỗi bệnh nhân cũng như kinhnghiệm của người thầy thuốc.Ðiều trị bằng thuốcTrong điều trị Basedow, dù lựa chọn phương pháp nào thì điều trị nộikhoa vẫn là một phương pháp hữu hiệu để đưa bệnh nhân về tình trạngbình giáp và là cơ sở để giúp các phương pháp điều trị khác đạt kết quảtốt hơn. Trong điều trị nội khoa, thuốc kháng giáp tổng hợp vẫn là loạithuốc căn bản hàng đầu, các thuốc khác chỉ có vai trò hỗ trợ cho điều trịđạt kết quả tốt hơn. Mỗi loại thuốc sẽ tác dụng theo một cơ chế khácnhau. Việc điều trị thường chia làm hai giai đoạn: Tấn công và duy trì.Thời gian điều trị thường khá dài, từ 6-18 tháng, nếu điều trị càng lâu tỷlệ tái phát càng thấp. Ðiều trị nội khoa đem lại một số ích lợi cho bệnhnhân như: ít biến chứng, không phải trải qua một cuộc phẫu thuật (làđiều mà hầu hết người bệnh nước ta rất sợ). Tuy nhiên, bên cạnh đócũng có những điểm bất lợi như tỷ lệ tái phát rất cao (lên đến 75%),bệnh nhân bị một số biến chứng của việc dùng thuốc kháng giáp tổnghợp lâu dài và nhất là việc tồn tại của bướu giáp (gây mất thẩm mỹ và lànguyên nhân chính khiến nhiều bệnh nhân phải đi điều trị).Ðiều trị bằng iode đồng vị phóng xạÐược áp dụng trên thế giới từ năm 1948 và ở Việt Nam năm 1978. Bệnhnhân sau khi được khám lâm sàng và làm một số xét nghiệm đánh giáchức năng tuyến giáp sẽ uống một liều chất iode phóng xạ. Trong cơ thể,chất này sẽ phá hủy các tế bào tuyến giáp và làm giảm khả năng tổnghợp các hormone của tuyến giáp là chất gây ra bệnh. Phương pháp nàycó ưu điểm là bệnh nhân có thể khỏi bệnh sau khi sử dụng một liềuthuốc, tránh được các biến chứng của phẫu thuật. Tuy nhiên, nó cũng cónhững nhược điểm quan trọng như: Nhiều công trình nghiên cứu chothấy việc dùng iode đồng vị phóng xạ không điều trị khỏi bệnh hoàntoàn, bướu giáp vẫn còn ảnh hưởng đến mặt thẩm mỹ và đôi khi làm suygiáp rất trầm trọng, làm nặng thêm các biến chứng về mắt (đặc biệt làlàm mắt lồi hơn). Chính vì vậy, trong thực hành bệnh viện, chỉ nên sửdụng phương pháp này cho những bệnh nhân có thể bệnh nặng, trên 40tuổi, bệnh kháng với thuốc kháng giáp tổng hợp, bị biến chứng nặng nềvề tim mạch không thể tiến hành ph ...