Bệnh đốm trắng (SEMBV hay WSSV)
Số trang: 10
Loại file: pdf
Dung lượng: 118.89 KB
Lượt xem: 20
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trong nhiều năm gần đây, ngành nuôi tôm đang phát triển một cách mạnh mẽ tại nhiều địa phương trong cả nước. Thế nhưng cùng với sự phát triển về diện tích, dịch bệnh cũng đang trở thành một nỗi lo vì gây nhiều thiệt hại cho nhiều người nuôi tôm.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bệnh đốm trắng (SEMBV hay WSSV) Bệnh đốm trắng (SEMBV hay WSSV) Trong nhiều năm gần đây, ngành nuôi tôm đang phát triển một cách mạnh mẽ tại nhiều địa phương trong cả nước. Thế nhưng cùng với sự phát triển về diện tích, dịch bệnh cũng đang trở thành một nỗi lo vì gây nhiều thiệt hại cho nhiều người nuôi tôm. Trong số các bệnh gây nhiều thiệt hại cho bà con nuôi tôm, thì bệnh SEMBV (Systemic etodermal and mesodermal baculovirus ) luôn là nỗi lo vì gây nhiều thiệt hại nhất. Cũng giống như bệnh MBV (Penaeus monodon - type baculovirus ), là một thứ bệnh do virus gây ra, gây chết hàng loạt giai đoạn tôm giống Pls 15-20 và không có thuốc điều trị. Bệnh đốm trắng hay đốm trắng đỏ thân có tên gọi là SEMBV (Systemic etodermal and mesodermal baculovirus ) hay WSSV (White-spot syndrome Virus) cũng là một thứ bệnh do virus gây ra và cũng không có thuốc điều trị. Bệnh đốm trắng hay đốm trắng đỏ thân (SEMBV) gây nhiều thiệt hại cho người nuôi tôm, nhất là những vùng nuôi nuôi tôm không có sự qui hoạch chăt chẽ và hệ thống kênh mương dẫn thoát nước, vì khả năng lây lan của bệnh là rất lớn, có thể gây thành dịch và không có thuốc điều trị. Bệnh đốm trắng (SEMBV) có thể lây lan bằng nhiều con đường khác nhau, từ trong nguồn nước hay từ các giá thể có trong tự nhiên như chim, cá, cua, còng nên rất khó kiểm soát. Tôm bị bệnh đốm trắng (SEMBV) thường có những triệu chứng ban đầu như bơi trên mặt nước, tập trung thành từng đàn quanh bờ ao và sẽ chết hàng loạt trong vòng từ 5 -7 ngày sau đó với những dấu hiệu trên cơ thể như đốm trắng, rụng râu, thân có màu đỏ và trong ruột trống rỗng. Vì không có thuốc điều trị, nên để đối phó với bệnh đốm trắng (SEMBV), các biện pháp ngăn ngừa để kiểm soát bệnh ngay từ khi chuẩn bị ao nuôi và một tinh thần cùng hợp tác giữa những người nuôi tôm trong cùng một khu vực để bệnh không lây lan thành dịch là đều cần thiết nên làm. Một số biện pháp sau đây là những kinh nghiệm đã được áp dụng thành công tại miền Trung (Ninh thuận) - để kiểm soát và ngăn ngừa dịch bệnh đốm trắng (SEMBV) trong nhiều năm qua có thể mang lại nhiều lợi ích cho người nuôi tôm, bao gồm: Vệ sinh ao nuôi thật tốt sau mỗi vụ mùa. Thường sau mỗi vụ thu hoạch, ao nuôi được bỏ trống cho tới vụ mùa sau, các chất thải hữu cơ trầm tích tầng đáy vẫn tiếp tục phân hủy ngấm sâu vào tầng đất đáy gây ô nhiễm lâu dài cho các ao nuôi tôm do vậy ngay sau khi thu hoạch dù không có tôm cũng cần phải chú ý việc xử lý đáy ao, không chờ cho đến khi vụ nuôi thì mới bắt đầu xử lý. Nên nuôi tôm trong môi trường khép kín ít thay nước, và nhất là cần thiết phải có ao dự trữ (reservoir), để xử lý nước trước khi đưa vào ao nuôi. Không lấy nước trực tiếp từ các nguồn nước tự nhiên chưa qua xử lý vì có thể mang mầm bệnh ngoài tự nhiên vào ao nuôi. Mực nước trong ao nuôi tôm có thể càng cao càng tốt (có thể cao hơn 1,5 m) vì với mực nước cao như vậy sẽ tạo ra môt môi trường ổn định khi thời tiết thay đổi giúp tôm khỏi bị sốc. Việc sử dụng ao dự trữ ngoài giá trị xử lý nước trước khi đưa vào ao nuôi nó còn giúp ích cho người nuôi tôm giải quyết được vấn đề về độ mặn của nước trong ao nuôi bằng cách chọn lựa thời điểm để lấy nước dự trữ, khi dộ mặn trong ao xuống thấp, lấy nước vào ao dự trữ lúc nước bên ngoài có độ mặn cao và ngược lại. Bằng cách sử dụng ao dự trữ như là một hệ thống điều hòa, người nuôi tôm có thể kiểm soát được độ mặn của nước trong ao ở mức cần thiết (từ 10-25 phần ngàn). Bảo đảm chắc chắn nguồn nước cung cấp vào trong ao nuôi không có mang mầm bệnh và các động vật ăn thịt khác bằng cách xử lý trước nước trong ao dự trữ. Chọn giống cẩn thận bằng các biện pháp gây sốc như kiểm tra qua formalin 3ppm và nước ngọt để loại bọ những con bị yếu, không thả giống quá dày, trung bình chỉ nên từ 20-25 con giống Pls 15/mét vuông để nâng cao tỉ lệ sống của tôm, tránh được tình trạng tôm sống ăn thịt tôm chết, có thể nhiễm bệnh, gây thành dịch. Thường xuyên kiểm tra môi trường nước trong ao nuôi, bảo đảm sự ổn định độ mặn, pH, tảo, oxy hòa tan. Giữ sạch đáy ao tránh cho tôm bị mòn đuôi, đóng rong trên thân và nhất là tránh gây xây xước trên thân tôm, là những cơ hội bệnh xâm nhập. Cần có một chế độ dinh dưỡng đấy đủ và hợp lý, thường xuyên bổ sung vitamin C và nhất là tuyệt đối không được dùng thức ăn tươi để cho tôm ăn. Tích cực ngăn chặn các giá thể mang mầm bệnh trong tự nhiên như chim, cá, cua, còng... Vì đó là các nguồn gốc lây lan của bệnh từ bên ngoài vào trong ao nuôi. Xử lý nước thải bằng các loại hóa chất như chlorine, thuốc tím… trước khi thải nước trong ao nuôi tôm ra ngoài nguồn nước chung. Và quan trọng nhất là cần có tính cộng đồng giữa những người nuôi tôm kế cận nhau, thường xuyên trao đổi thông tin để quản lý nguồn nước thải, tránh sự lây nhiễm của bệnh mà có thể gây thành dịch. Kể từ khi bệnh xuất hiện từ năm 1995, đến nay đã có nhiều sự hiểu biết hơn về bệnh đốm trắng (SEMBV hay WSSV). Theo một thông tin tham khảo trên ShrimpNews 1998 Không phải tất cả các dấu hiệu đốm trắng trên thân tôm luôn là dấu hiệu của bệnh đốm trắng (SEMBV) dẫn đến kết quả là là tôm sẽ chết hàng loạt. Một số chuẩn đoán chính xác về bệnh SEMBV chỉ có thể thực hiện bằng máy PCR hay bằng phương pháp xét nghiệm mô tế bào, là những cách làm mà người nuôi tôm khó có thể có điều kiện thực hiện, vì vậy khi nhìn thấy những dấu hiệu đốm trắng trên thân tôm đa số người nuôi tôm thường hoảng hốt vì cho đó là bệnh do virus gây ra mà không biết rằng có thể có những trường hợp sau đây: 1– Nếu tôm bị bệnh trong giai đoạn thả giống từ Pls 15 cho đến 12 gram (khoảng 30-45 ngày tuổi) mà có dấu hiệu bị bệnh, chết quanh bờ ao nuôi thì chắc chắn là bệnh do virus gây ra, ngay cả khi trông chúng có vẻ như bình thường hay chỉ có một vài đốm trắng bên dưới vỏ và khoang bụng. Một dấu hiệu khác dễ dàng để nhận biết là số lược thức ăn được tiêu thụ giảm đi một cách rõ rệt so với b ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bệnh đốm trắng (SEMBV hay WSSV) Bệnh đốm trắng (SEMBV hay WSSV) Trong nhiều năm gần đây, ngành nuôi tôm đang phát triển một cách mạnh mẽ tại nhiều địa phương trong cả nước. Thế nhưng cùng với sự phát triển về diện tích, dịch bệnh cũng đang trở thành một nỗi lo vì gây nhiều thiệt hại cho nhiều người nuôi tôm. Trong số các bệnh gây nhiều thiệt hại cho bà con nuôi tôm, thì bệnh SEMBV (Systemic etodermal and mesodermal baculovirus ) luôn là nỗi lo vì gây nhiều thiệt hại nhất. Cũng giống như bệnh MBV (Penaeus monodon - type baculovirus ), là một thứ bệnh do virus gây ra, gây chết hàng loạt giai đoạn tôm giống Pls 15-20 và không có thuốc điều trị. Bệnh đốm trắng hay đốm trắng đỏ thân có tên gọi là SEMBV (Systemic etodermal and mesodermal baculovirus ) hay WSSV (White-spot syndrome Virus) cũng là một thứ bệnh do virus gây ra và cũng không có thuốc điều trị. Bệnh đốm trắng hay đốm trắng đỏ thân (SEMBV) gây nhiều thiệt hại cho người nuôi tôm, nhất là những vùng nuôi nuôi tôm không có sự qui hoạch chăt chẽ và hệ thống kênh mương dẫn thoát nước, vì khả năng lây lan của bệnh là rất lớn, có thể gây thành dịch và không có thuốc điều trị. Bệnh đốm trắng (SEMBV) có thể lây lan bằng nhiều con đường khác nhau, từ trong nguồn nước hay từ các giá thể có trong tự nhiên như chim, cá, cua, còng nên rất khó kiểm soát. Tôm bị bệnh đốm trắng (SEMBV) thường có những triệu chứng ban đầu như bơi trên mặt nước, tập trung thành từng đàn quanh bờ ao và sẽ chết hàng loạt trong vòng từ 5 -7 ngày sau đó với những dấu hiệu trên cơ thể như đốm trắng, rụng râu, thân có màu đỏ và trong ruột trống rỗng. Vì không có thuốc điều trị, nên để đối phó với bệnh đốm trắng (SEMBV), các biện pháp ngăn ngừa để kiểm soát bệnh ngay từ khi chuẩn bị ao nuôi và một tinh thần cùng hợp tác giữa những người nuôi tôm trong cùng một khu vực để bệnh không lây lan thành dịch là đều cần thiết nên làm. Một số biện pháp sau đây là những kinh nghiệm đã được áp dụng thành công tại miền Trung (Ninh thuận) - để kiểm soát và ngăn ngừa dịch bệnh đốm trắng (SEMBV) trong nhiều năm qua có thể mang lại nhiều lợi ích cho người nuôi tôm, bao gồm: Vệ sinh ao nuôi thật tốt sau mỗi vụ mùa. Thường sau mỗi vụ thu hoạch, ao nuôi được bỏ trống cho tới vụ mùa sau, các chất thải hữu cơ trầm tích tầng đáy vẫn tiếp tục phân hủy ngấm sâu vào tầng đất đáy gây ô nhiễm lâu dài cho các ao nuôi tôm do vậy ngay sau khi thu hoạch dù không có tôm cũng cần phải chú ý việc xử lý đáy ao, không chờ cho đến khi vụ nuôi thì mới bắt đầu xử lý. Nên nuôi tôm trong môi trường khép kín ít thay nước, và nhất là cần thiết phải có ao dự trữ (reservoir), để xử lý nước trước khi đưa vào ao nuôi. Không lấy nước trực tiếp từ các nguồn nước tự nhiên chưa qua xử lý vì có thể mang mầm bệnh ngoài tự nhiên vào ao nuôi. Mực nước trong ao nuôi tôm có thể càng cao càng tốt (có thể cao hơn 1,5 m) vì với mực nước cao như vậy sẽ tạo ra môt môi trường ổn định khi thời tiết thay đổi giúp tôm khỏi bị sốc. Việc sử dụng ao dự trữ ngoài giá trị xử lý nước trước khi đưa vào ao nuôi nó còn giúp ích cho người nuôi tôm giải quyết được vấn đề về độ mặn của nước trong ao nuôi bằng cách chọn lựa thời điểm để lấy nước dự trữ, khi dộ mặn trong ao xuống thấp, lấy nước vào ao dự trữ lúc nước bên ngoài có độ mặn cao và ngược lại. Bằng cách sử dụng ao dự trữ như là một hệ thống điều hòa, người nuôi tôm có thể kiểm soát được độ mặn của nước trong ao ở mức cần thiết (từ 10-25 phần ngàn). Bảo đảm chắc chắn nguồn nước cung cấp vào trong ao nuôi không có mang mầm bệnh và các động vật ăn thịt khác bằng cách xử lý trước nước trong ao dự trữ. Chọn giống cẩn thận bằng các biện pháp gây sốc như kiểm tra qua formalin 3ppm và nước ngọt để loại bọ những con bị yếu, không thả giống quá dày, trung bình chỉ nên từ 20-25 con giống Pls 15/mét vuông để nâng cao tỉ lệ sống của tôm, tránh được tình trạng tôm sống ăn thịt tôm chết, có thể nhiễm bệnh, gây thành dịch. Thường xuyên kiểm tra môi trường nước trong ao nuôi, bảo đảm sự ổn định độ mặn, pH, tảo, oxy hòa tan. Giữ sạch đáy ao tránh cho tôm bị mòn đuôi, đóng rong trên thân và nhất là tránh gây xây xước trên thân tôm, là những cơ hội bệnh xâm nhập. Cần có một chế độ dinh dưỡng đấy đủ và hợp lý, thường xuyên bổ sung vitamin C và nhất là tuyệt đối không được dùng thức ăn tươi để cho tôm ăn. Tích cực ngăn chặn các giá thể mang mầm bệnh trong tự nhiên như chim, cá, cua, còng... Vì đó là các nguồn gốc lây lan của bệnh từ bên ngoài vào trong ao nuôi. Xử lý nước thải bằng các loại hóa chất như chlorine, thuốc tím… trước khi thải nước trong ao nuôi tôm ra ngoài nguồn nước chung. Và quan trọng nhất là cần có tính cộng đồng giữa những người nuôi tôm kế cận nhau, thường xuyên trao đổi thông tin để quản lý nguồn nước thải, tránh sự lây nhiễm của bệnh mà có thể gây thành dịch. Kể từ khi bệnh xuất hiện từ năm 1995, đến nay đã có nhiều sự hiểu biết hơn về bệnh đốm trắng (SEMBV hay WSSV). Theo một thông tin tham khảo trên ShrimpNews 1998 Không phải tất cả các dấu hiệu đốm trắng trên thân tôm luôn là dấu hiệu của bệnh đốm trắng (SEMBV) dẫn đến kết quả là là tôm sẽ chết hàng loạt. Một số chuẩn đoán chính xác về bệnh SEMBV chỉ có thể thực hiện bằng máy PCR hay bằng phương pháp xét nghiệm mô tế bào, là những cách làm mà người nuôi tôm khó có thể có điều kiện thực hiện, vì vậy khi nhìn thấy những dấu hiệu đốm trắng trên thân tôm đa số người nuôi tôm thường hoảng hốt vì cho đó là bệnh do virus gây ra mà không biết rằng có thể có những trường hợp sau đây: 1– Nếu tôm bị bệnh trong giai đoạn thả giống từ Pls 15 cho đến 12 gram (khoảng 30-45 ngày tuổi) mà có dấu hiệu bị bệnh, chết quanh bờ ao nuôi thì chắc chắn là bệnh do virus gây ra, ngay cả khi trông chúng có vẻ như bình thường hay chỉ có một vài đốm trắng bên dưới vỏ và khoang bụng. Một dấu hiệu khác dễ dàng để nhận biết là số lược thức ăn được tiêu thụ giảm đi một cách rõ rệt so với b ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Bệnh học thủy sản Bệnh thường gặp ở thủy sản Bệnh đốm trắng Bệnh Tôm sú Kỹ thuật nuôi Tôm sú Dịch bệnh ở Tôm SúGợi ý tài liệu liên quan:
-
225 trang 214 0 0
-
Tìm hiểu các kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản (Tập 1): Phần 1
66 trang 189 0 0 -
122 trang 106 0 0
-
91 trang 98 0 0
-
Hệ thống câu hỏi về kỹ thuật nuôi tôm sú: Phần 1
96 trang 65 0 0 -
106 trang 45 0 0
-
Giáo trình Di truyền và chọn giống thủy sản: Phần 2
65 trang 42 0 0 -
55 trang 39 0 0
-
82 trang 39 0 0
-
119 trang 36 0 0