Hai bệnh này rất hay gặp, khá đặc hiệu cho lứa tuổi cao. Nhưng tiếc thay lại ít được biết đến, vì vậy đã gây tác hại không nhỏ. Điều cần nói là nếu chú ý thì sự phát hiện cũng dễ và nếu điều trị sớm thì kết quả rất tốt.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bệnh giả viêm đa khớp gốc chi và bệnh Horton BỆNH GIẢ VIÊM ĐA KHỚP GỐC CHI VÀ BỆNH HORTONHai bệnh này rất hay gặp, khá đặc hiệu cho lứa tuổi cao. Nhưng tiếc thay lại ítđược biết đến, vì vậy đã gây tác hại không nhỏ. Điều cần nói là nếu chú ý thì sựphát hiện cũng dễ và nếu điều trị sớm thì kết quả rất tốt.Gọi là hai bệnh cũng được mà gọi là một bệnh cũng đúng vì chúng thường kết hợpchặt chẽ với nhau, có thể đồng thời xuất hiện hoặc bệnh này đi trước bệnh kia, ít khitồn tại riêng rẽ, độc lập và hiện nay cũng có nhiều bằng chứng là chúng có thể cóchung nguyên nhân cơ chế.Đó là bệnh giả viêm đa khớp gốc chi (GVĐKGC) còn gọi là Pseudopolyarthriterhizomélique hay polymyalgia rheumatica. Bệnh kia là bệnh Horton (B.H) còn gọi làbệnh viêm động mạch tế bào khổng lồ.Bệnh GVĐKGC gần như bao giờ cũng chỉ gặp ở người cao tuổi. Đặc điểm là đau kèmtheo cứng gáy, cứng vai, đau cứng hai bên đối xứng ở phần trên của cánh tay, khungchậu, phần trên của đùi (gốc chi). Đau và cứng làm hạn chế mọi cử động nhất là vềbuổi sáng, đó là một đặc điểm bệnh nhân dễ ghi nhận. Các triệu chứng như sốt, khóchịu toàn thân, gầy sút cân rất thường gặp và vì vậy hay kèm hội chứng trầm cảm, loâu, bi quan về bệnh tật. Dấu hiệu bất thường chủ yếu về xét nghiệm là tăng rất mạnhtốc độ lắng máu (có thể tăng đến 50-60mm trong giờ đầu). Việc bệnh đáp ứng về lâmsàng và xét nghiệm (tốc độ lắng máu) nhanh chóng với liều thấp cortico-Steroid, cũngrất đặc biệt. Hiện tượng may mắn đó nói lên sự cần thiết phải phát hiện bệnh và điềutrị sớm.Bệnh Horton (B.H) là một danh từ bệnh lý dùng để chỉ một tình trạng viêm độngmạch u hạt hoại tử, chủ yếu ở động mạch chủ và các nhánh cỡ trung bình với tính chấtlan tỏa. Gặp chủ yếu ở người cao tuổi nữ và cũng có đặc điểm như bệnh trên là tốc độlắng máu rất cao. Nguy hiểm của bệnh là có thể gây mù đột ngột do huyết khối ở độngmạch trung tâm võng mạc hoặc do viêm dây thần kinh thị giác bị thiếu máu nuôi, hậuquả tai hại của viêm động mạch thái dương. Biểu hiện thường gặp là nhức đầu, rốiloạn thị giác, các cơn đau cách hồi ở các cơ nhai, kèm theo sốt. Sờ nắn vào vùng độngmạch thái dương sẽ phát hiện được một động mạch cứng, lăn dưới ngón tay và rấtđau. Bệnh Horton có thể xảy ra trước hoặc sau các biểu hiện của GVĐKGC. Bệnh nàycũng đáp ứng với corticoid nhưng nếu không chữa trị kịp thời thì mù khó có thể cứuvãn được.Bệnh GVĐKGC được một thầy thuốc vùng Ecốt (Bruce) mô tả đầu tiên năm 1888.Bệnh viêm động mạch thái dương được Hutchinson biệt lập vào năm 1890 đều là ởngười già. Horton năm 1932 tìm thấy hình ảnh tổ chức học của viêm động mạch ở cảhai bên. Những ý nghĩ đầu tiên về mối liên quan có thể có giữa GVĐKGC và BHđược Porsman đề xuất năm 1951. Tuy nhiên mặc dầu GVĐKGC và BH thường cùngsong song tồn tại, cũng có trường hợp các bệnh đó xuất hiện riêng rẽ.Nguyên nhân chưa được biết rõ. Vì bệnh hay xảy ra chủ yếu ở người cao tuổi - thờigian bắt đầu thông thường từ tuổi 65-70 - nên nhiều người cho là do tuổi già. Tuynhiên cũng chưa có thể giải thích được sự lão hóa tác động như thế nào trong cơ chếbệnh sinh. Một số công trình gợi ý có vai trò của miễn dịch, hoặc là một kháng thểchống lại thành động mạch hoặc có lắng đọng các phức hợp miễn dịch lưu động. Cácrối loạn về miễn dịch tế bào cũng đã được công bố nhưng chưa được xác định chắcchắn. Tuy nhiên sự có mặt của các tế bào huyết tương và sự hình thành u hạt với cáctế bào khổng lồ ở kế cận màng chun trong, bị đứt đoạn của các động mạch bị tổnthương, tiếp tục biện hộ cho vai trò của miễn dịch tế bào nhất là đối với bệnh Horton.Tỷ lệ mắc bệnh khoảng 133 trường hợp cho 100.000 dân từ 50 tuổi trở lên. Chẩn đoánGVĐKGC/BH cần được nghĩ đến trước một bệnh nhân tuổi cao có đau ở các vùnggốc chi, hạn chế cử động, nhức đầu, có rối loạn thị giác, sốt, thiếu máu và tăng mạnhtốc độ lắng máu.Với việc điều trị corticoid, các triệu chứng của GVĐKGC có thể bị xóa bỏ và các biếnchứng của bệnh Horton như mù, tách động mạch chủ có thể được ngăn ngừa. Nhữngbệnh nhân GVĐKGC đơn thuần đáp ứng một cách rõ rệt với liều 10-15mg Prednisonmỗi ngày, tác dụng lâm sàng thấy ngay sau 12-36 giờ và tốc độ lắng máu trở về bìnhthường trong vòng 2-4 tuần. Việc điều trị bệnh Horton cần liều cao hơn, từ 40-60mgPrednisolon mỗi ngày. Nếu có các dấu hiệu về thị giác và các biến chứng nặng nhưphồng động mạch chủ thì việc điều trị bằng corticoid phải được coi như một cấp cứu,sau đó làm ngay sinh thiết động mạch thái dương. Khi các dấu hiệu bệnh lý đã thuyêngiảm, có thể hạ dần liều xuống mức thấp nhất còn giá trị và duy trì ở liều đó. Thờigian điều trị ít nhất phải 1 năm, thông thường là 2 năm, kết quả rất tốt.Như ta thấy, chẩn đoán bệnh không khó, điều trị giản đơn, hiệu quả điều trị rõ rệt. Vấnđề quyết định ở đây là phải nghĩ đến khả năng mắc bệnh này ở người cao tuổi, điềumà hiện nay chưa được chú ý đúng mức, do đó đã để gây nên những hậu quả n ...