Danh mục

BỆNH HỌC THỰC HÀNH - THỦY THŨNG

Số trang: 30      Loại file: pdf      Dung lượng: 177.99 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Thủy thũng là loại bệnh do công năng bài tiết thủy dịch trong cơ thể mất bình thường, thủy dịch ứ đọng lại gây nên phù thũng cục bộ hoặc toàn thân. Chất nước ứ đọng trong cơ thể, tràn ra da, thớ thịt, làm cho mặt, mi mắt, chân tay, lưng bụng, thậm chí toàn thân phù, gọi chung là Thủy thũng. Trong Nội kinh có bệnh danh là ‘Thủy’; Sách ‘Kim Quỹ Yếu Lược’ có bệnh danh là ‘Thủy khí’. Thiên ‘Khí Huyết Luận’ (Tố Vấn 37) viết; “Mạch của Thận Vi Đại là chứng Thạch thủy....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
BỆNH HỌC THỰC HÀNH - THỦY THŨNG BỆNH HỌC THỰC HÀNH THỦY THŨNG Thủy thũng là loại bệnh do công năng bài tiết thủy dịch trong cơ thểmất bình thường, thủy dịch ứ đọng lại gây nên phù thũng cục bộ hoặc toànthân. Chất nước ứ đọng trong cơ thể, tràn ra da, thớ thịt, làm cho mặt, mimắt, chân tay, lưng bụng, thậm chí toàn thân phù, gọi chung là Thủy thũng. Trong Nội kinh có bệnh danh là ‘Thủy’; Sách ‘Kim Quỹ Yếu Lược’có bệnh danh là ‘Thủy khí’. Thiên ‘Khí Huyết Luận’ (Tố Vấn 37) viết; “Mạch của Thận Vi Đại làchứng Thạch thủy. Dũng thủy ấn tay vào bụng không thấy cứng, thủy khínáu ở Đại trường, đi nhanh có tiếng kêu óc ách, như túi bọc nước, đó là bệnhThủy”. Về phân loại, sách Nội Kinh căn cứ vào triệu chứng mà nêu ra Phongthủy, Thạch thủy. Lại căn cứ vào chất nước ứ đọng ở mỗi tạng để chia ra cácloại chứng hậu khác nhau. Chu Đan Khê đời Nguyên tổng kết lý luận và kinh nghiệm của ngườixưa, chia thủy thũng làm hai loại lớn là Âm thủy, Dương thủy. Các đời sau, căn cứ theo lý thuyết của Chu Đan Khê trên cơ sở hailoại lớn Âm thủy, Dương thủy lại chia ra nhiều thể bệnh, đối với nhận thứcvề biện chứng thể bệnh đã có bước tiến nhất định. Những bàn luận về thủythũng của người xưa, bao gồm cả loại Thủy thũng do viêm Thận cấp, mạntính; bệnh Tim, xơ Gan và trở ngại dinh dưỡng trong y học hiện đại. Nguyên Nhân 1) Ngoại cảm phong tà thủy thấp: Phong tà từ ngoài xâm phạm, Phếkhí không tuyên thông, không điều hòa thủy đạo đưa xuống Bàng quang,phong tà và thủy khí kích bác lẫn nhau đến nỗi phong thủy tràn lan ra thớthịt và da gây nên thủy thũng. 2) Do ăn uống ở nơi ẩ m thấp: ăn uống không điều độ, no đói thấtthường, hoặc mệt nhọc quá mức; Tỳ khí bị tổn thương mất chức năng kiệnvận đến nỗi thủy dịch ứ đọng không chưng hóa được. Ở nơi ẩm ướt hoặc lộinước dầm mưa, thủy thấp ngấm vào trong, thấp tà ứ đọng ở trung tiêu, Tỳ bịthấp làm trở ngại nên vận hóa không mạnh, thủy thấp không đưa xuốngđược tràn ra cơ bắp gây nên thủy thũng. Nặng hơn thì Thận khí nội thương,Thận hư chức năng mở đóng không thuận lợi, thủy dịch tràn ra cũng gây nênthủy thũng. 3- Do lao động quá sức làm tổn thương Tỳ. Thêm vào đó, no đói thấtthường làm Tỳ ngày càng suy tổn. Tỳ có công năng vận hành dưỡng chấpnuôi dưỡng toàn thân,. Nếu Tỳ hư thì thủy dịch không vận hóa, đình trệ lạibên trong, đến lúc Tỳ thổ không ức chế được thủy, thấm vào cơ mô gây nênthủy thũng. 4- Do phòng sự quá độ hoặc tinh thần quá căng thẳng làm cho Thậnkhí bị tổn thương, ảnh hưởng đến việc hóa khí của Bàng quang và Tam tiêu,thủy dịch bị ngừng trệ, ngấm ra da thịt gây nên thủy thũng. Các nguyên nhân nói trên, đều có thể chuyển hóa lẫn nhau. Như thủythũng do ngoại nhân lâu ngày không khỏi, thủy thấp ngấm dần có thể dẫnđến Tỳ Thận dương hư khiến bệnh tình càng thêm dai dẳng. Trái lại, Thủythũng do nội nhân, một khi cảm nhiễm ngoại tà cũng dẫn đến Phế khí khôngtuyên giáng được, khiến cho xu thế thủy thũng đột nhiên tăng lên. Chương ‘Thủy Thũng Môn’(Y Môn Pháp Luật) viết: “Sách nói ‘Nhịdương kết gọi là Tiêu, Tam âm kết gọi là Thủy; Tam âm là hai tạng Thủ TúcThái âm Phế. Vị là bể thủy cốc bệnh thủy có gốc từ Vị, sách nói thuộc TỳPhế là tại sao ? Túc Thái âm Tỳ đủ sức chuyển tinh vi lên trên ; Thủ Thái âmPhế đủ khả năng thông điều thủy đạo xuống d ưới thì bể không nối sóng. Chỉcó khí của hai tạng Tỳ Phế kết lại không thông, vì sau này càng tích chứatrong Vị, thấm khắp biểu lý nơi nào cũng bị, đó là Tỳ Phế không phát huytác dụng nữa. Nhưng tác dụng quan trọng nhất là Thận, vì Thận là cửa củaVị. Thận chủ mở đóng. Thận theo d ương thì mở. Dương quá mạnh thì quanmôn mở rộng, thủy dồn xuống mà thành tiêu. Thận theo âm thì đóng. Âmquá mạnh thì quan môn đóng chặt, thủy không thông mà thành thũng. Sáchcòn nói Thận là bản, Phế là tiêu là có đủ ý đón nhận chuyển vận, như vậy thìgây nên bệnh Thủy cốt lõi xuất phát từ ba tạng Tỳ Phế Thận mà ra”. Hải Thượng Lãn Ông trong ‘Bách Bệnh Cơ Yếu’ viết: “ Thận hưkhông hành được thủy, Phế hư không chế được thủy, Vị hư không chuyểnhóa được thủy cốc, đình lại ở Tỳ, Tỳ không vận hóa được làm cho Tam tiêu,kinh lạc đều bị ngừng trệ, lưu lại ở tạng thì thành bệnh trướng, ngấm ra b ìphu thì thành bệnh thủy thũng… Thủy khí gây bệnh nếu thành trướng phầnnhiều là thực chứng, nếu phát ra phù thũng, đa số là hư chứng. Tuy nói tạngPhế có liên hệ nhưng gốc bệnh vẫn là hai tạng Tỳ và Thận. Vì mệnh mônhỏa hư không ôn hóa được Thận khí, không ôn dưỡng được Tỳ thổ. Thủycốc lan tràn, Tỳ kém vận hóa. Do đó, Tỳ dương cũng suy kém dần trở thànhmạn tính. Muốn đạt hiệu quả tốt nhất trước hết phải chú trọng ôn bổ mệnhmôn”. Nói tóm lại, ngoại cảm phong tà thủy thấp dẫn đến thủy thũng phầnnhiều là Dương thủy. Nội thương ăn uống mệt nhọc dẫn đến thủy thũngphần nhiều là âm th ...

Tài liệu được xem nhiều: