Thông tin tài liệu:
B. burgdorferi dark field illumination. American society for Microbiology Xoắn khuẩn Borrelia burgdoferi là nguyên nhân gây nên bệnh Lyme. Bệnh Lyme được Tiến sĩ Allen Steere ghi nhận lần đầu tiên tại Hoa Kỳ vào năm 1975 sau một đợt bùng phát dịch viêm khớp dạng thấp ở tuổi vị thành niên một cách bí hiểm gần quận Lyme, bang Connecticut. Năm 1982, nguyên nhân gây bệnh Lyme được khám phá bởi Willy Burgdorfer, Ông đã phân lập được xoắn khuẩn (spirochetes) Borrelia từ đoạn giữa ruột của bọ ve (Ixodes ticks). Ông đã chứng minh rằng các...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bệnh Lyme và Xoắn khuẩn Borrelia burgdoferi Bệnh Lyme và Xoắn khuẩn Borrelia burgdoferi B. burgdorferi dark field illumination. American society for Microbiology Xoắn khuẩn Borrelia burgdoferi là nguyên nhân gây nên bệnh Lyme. BệnhLyme được Tiến sĩ Allen Steere ghi nhận lần đầu tiên tại Hoa Kỳ vào năm 1975sau một đợt bùng phát dịch viêm khớp dạng thấp ở tuổi vị thành niên một cách bíhiểm gần quận Lyme, bang Connecticut. Năm 1982, nguyên nhân gây bệnh Lyme được khám phá bởi WillyBurgdorfer, Ông đã phân lập được xoắn khuẩn (spirochetes) Borrelia từ đoạn giữaruột của bọ ve (Ixodes ticks). Ông đã chứng minh rằng các xoắn khuẩn này đãphản ứng với huyết thanh miễn dịch được lấy từ bệnh nhân đã được chẩn đoánbệnh Lyme. Sau đó, xoắn khuẩn được đặt tên là Borrelia burgdorferi 1. Sinh học của Borrelia burgdorferi Giống như Treponema pallidum gây bệnh ở người, Borreliaburgdorferi là một xoắn khuẩn, có đặc tính di động bằng các lông roi được gọi làendoflagella, phân bố rộng rãi trong những môi trường chất nhầy và được tìm thấytrong ống ruột non của động vật và trong xoang miệng của người. Endoflagella chứa ở khoang nằm giữa màn trong và màn ngoài củalớp vỏ vi khuẩn. Khi lông roi xoay chuyển trong khoang này, xoắn khuẩn di độngtheo kiểu xoắn ốc. Hình thức di chuyển này sẽ giúp cho xoắn khuẩn thích ứng vớicác môi trường nhầy, như chất cặn lắng, mô nhầy, ống tiêu hoá động vật. Xoắnkhuẩn có chiều dài gấp nhiều lần chiều rộng, chiều rộng của vi khuẩn quá nhỏ. Vídụ, xoắn khuẩn Borrelia có chiều dài 20 micromet -30 micromet nhưng chiều rộngchỉ có 0.2 micromet – 0.3 micromet. Vì thế, Xoắn khuẩn không thể nhìn thấy dướikính hiển vi thông thường được. Xoắn khuẩn phải được xem dưới kính hiển vi nềnđen (Dark-field microscopy). Xoắn khuẩn không thuộc loại Gram âm hoặc Gramdương. 2. Khả năng sinh bệnh của Borrelia burgdoferi Borrelia burgdorferi xâm nhập vào máu và mô của các loài động vật có vúvà chim bị nhiểm. Nguồn chứa tự nhiên của Borrelia burgdoferi là loài chuột chântrắng (White-footed mouse). Bọ ve sau khi hút máu các động vật bị nhiểm, truyềnxoắn khuẩn cho loài hưu đuôi trắng (White-tailed deer), người và các động vậtmáu nóng khác. Ở người, chó và nhiều loài động vật khác, nhiểm Borreliaburgdoferi sẽ gây nên bệnh Lyme. 3. Triệu chứng của bệnh Lyme: Triệu chứng của bệnh Lyme trải qua 3giai đoạn. - Giai đoạn 1 (Early infection). Ở giai đoạn này, bệnh Lyme thường xuấthiện ban đỏ đặc trưng, rộng và phát triển tại vị trí bị bọ ve đốt. Ban đỏ này đượcgọi là erythema migrans (EM) và thấy ở 60-80% bệnh nhân (có đến 20-40%trường hợp không bao giờ có ban đỏ, đây là điều quan trọng cần nhớ). Xoắn khuẩncó thể được phân lập từ rìa của ban đỏ. Erythema migrans là một mảng tròn xuấthiện từ 3 ngày đến 1 tháng sau khi bị bọ ve đốt. Sau đó, mảng ban đỏ phát triểnrộng ra với kích thước và đặc điểm như “mắt bò” (Bull’ eye). Tuy nhiên, khôngphải tất cả các ban xảy ra tại vị trí của bọ ve đốt đều gây nên bệnh Lyme. Mộtphản ứng dị ứng do nước bọt của bọ ve thường xảy ra tại vị trí bọ ve đốt. Ban đỏnày có thể bị nhầm lẫn ban đỏ của bệnh Lyme. Phản ứng dị ứng với nước bọt củabọ ve thường xảy ra trong vòng vài giờ đến vài ngày sau khi bọ ve đốt và thườngkhông lan rộng, biến mất sau vài ngày. Erythema migrans tồn tại lâu hơn và giảmxuống trong vòng 3-4 tuần lễ. - Giai đoạn 2 (Dissemination stage) xảy ra vài ngày đến vài tuần sau khibị nhiểm. Tại giai đoạn này, xoắn khuẩn vào máu đến các mô của cơ thể. Mộthoặc nhiều triệu chứng và dấu hiệu lâm sàng cần được chú ý: • Mệt mỏi • Ớn lạnh và sốt. • Nhức đầu • Đau cơ và khớp • Sưng hạch bạch huyết • Tổn thương hình vòng khuyên thứ phát - Giai đoạn 3 (persistent infection). Vài triệu chứng và dấu hiệu lâm sàngcủa bệnh Lyme có thể không xuất hiện đến vài tuần, vài tháng hoặc vài năm saukhi bọ ve đốt. Giai đoạn 3 có những đợt đau khớp cách khoảng điển hình. Biểuhiện lâm sàng thông thường ở giai đoạn này là viêm màng não, liệt mặt (Bell’spalsy), các triệu chứng về tim, đau khớp, gân, cơ và xương. Viêm khớp với biểuhiện đau và sưng tại một hoặc nhiều khớp lớn, nhất là khớp gối. Bất thường về hệthần kinh có thể bao gồm tê, đau, liệt cơ mặt, thường chỉ một bên (Bell’s palsy) vàviêm màng não (sốt, cứng cổ, nhức đầu dữ dội). Ít phổ biến hơn là loạn nhịp timcó thể xảy ra. Một số ít bệnh nhân (11%), sự phát triển của viêm khớp Lyme mãn tính cóthể dẫn tới sự ăn mòn sụn và/hoặc xương. Biểu hiện lâm sàng khác trong giai đoạn3 của bệnh Lyme gồm biến chứng thần kinh như ức chế, rối loạn trí nhớ, rối loạntính cách hoặc giấc ngủ và cảm giác châm chích ở tay hoặc chân. 4. Chẩn đoán bệnh Lyme Bệnh Lyme thường khó chẩn đoán vì triệu chứng và dấu hiệu ...