Bệnh màng trong ở trẻ sơ sinh
Số trang: 2
Loại file: pdf
Dung lượng: 154.45 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bệnh xuất hiện vài phút đến hai giờ sau khi sinh với hội chứng suy hô hấp nặng mà không tìm thấy các nguyên nhân như nhiễm khuẩn, ngạt nước ối, hít phải phân su. Bệnh thể hiện là khó thở nhanh nông, nhịp thở trên 60 lần/phút.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bệnh màng trong ở trẻ sơ sinh Bệnh màng trong ở trẻ sơ sinh Bệnh xuất hiện vài phút đến hai giờ sau khi sinh với hội chứng suy hô hấp nặngmà không tìm thấy các nguyên nhân như nhiễm khuẩn, ngạt nước ối, hít phải phân su.Bệnh thể hiện là khó thở nhanh nông, nhịp thở trên 60 lần/phút. Biểu hiện Các khoang liên sườn, hõm trên ức, co kéo, cánh mũi phập phồng, toàn thân tímtái. Cho thở oxy không đỡ. Khám phổi thấy tiếng rì rào phế nang giảm, có ran ở đáy phổi.Chụp X-quang phổi bình thường hoặc thay đổi nhanh là tổn thương mờ hai phổi, nênchụp phổi nhiều lần để so sánh. Nếu nhẹ và điều trị đúng thì sau 72 giờ các triệu chứnggiảm, dần dần bệnh thoái lui. Nếu nặng, các dấu hiệu tím tái, khó thở tăng lên, huyết áp hạ, thân nhiệt hạ, trẻ sẽtử vong sau vài giờ. Nếu may mắn thoát, sau khi khỏi có thể để lại các di chứng như thiếuoxy não, xuất huyết não, hạ đường huyết… Trẻ đủ tháng phục hồi tốt và tỷ lệ tử vong íthơn trẻ thiếu tháng. Sự hình thành màng trong Ở phổi người bình thường, bên trong phế nang có chứa một chất Surfactant còngọi là chất giảm hoạt bề mặt (GHBM) hay chất diện hoạt, có tác dụng giúp cho các phếnang không bị xẹp. Chất GHBM ở phổi bào thai xuất hiện tương đối vào tuần thứ 20. Nóphủ vách trong của phế nang và có trong nước ối vào tuần thứ 28-36. Ở trẻ sinh non, phổi chưa trưởng thành, chất GHBM thiếu cả về lượng và chất, nênphế nang bị xẹp, huyết tương tràn vào phế nang, chất fibrin của huyết tương lắng đọngphía trong của các phế nang và các tiểu phế quản, tạo thành một lớp màng, gọi là màngtrong. Nhìn qua kính hiển vi thấy một màng màu hồng, acid, trên màng có hồng cầu, sợifibrin và một số mảnh vụn tế bào. Màng này cản trở sự lưu thông khí và sự trao đổi oxy,CO2 từ phế nang qua các mao mạch. Đưa đến dấu hiệu suy hô hấp và tử vong rất nhanh. Yếu tố thuận lợi gây bệnh màng trong Trẻ sinh non dưới 28 tuần, tỷ lệ mắc bệnh màng trong là 50-60%, nhất là cân nặngcủa trẻ dưới 1.000g hoặc trẻ sinh đôi. Trong thời gian chuyển dạ, mẹ chuyển dạ lâu, băng huyết, thai bị suy cấp hoặcsinh ra bị ngạt. Trong thời kỳ có thai mẹ bị bệnh đái tháo đường hoặc điều trị một bệnh nào đóbằng corticoide kéo dài. Yếu tố gen di truyền Chẩn đoán Chẩn đoán sớm: Định lượng chất GHBM trong nước ối. Tỷ lệ hai chấtlecithin/sphingomyelin (L/S). Bình thường L/S > 2. Nếu L/S < 2 thì trẻ sơ sinh có nguycơ mắc bệnh màng trong. Trẻ sau sinh: Nếu L/S < 2 và có các biểu hiện suy hô hấp cấp. Đo khí máu PaO2giảm, PaCO2 tăng, có biến đổi X-quang phổi, thì chẩn đoán là trẻ bị bệnh màng trong. Điều trị Đặt trẻ trong lồng ấp 36,50 - 370. Truyền glucose, đạm mỡ, bicarbonat. Hô hấp hỗ trợ. Nhỏ giọt dung dịch surfactant qua ống nội khí quản vào phổi trẻ. Dự phòng Đối với mẹ: Điều trị tốt bệnh đái tháo đường, không lạm dụng chất corticoidetrong thời gian mang thai. Xác định tỷ lệ L/S trong nước ối để tiên lượng nguy cơ trẻ bịbệnh màng trong. Với trẻ sinh non, thiếu tháng, cân nhẹ, nên chủ động bơm chất surfactant vào phổiqua ống nội khí quản để phòng tránh bệnh màng trong. Theo TS. ĐÀO KỲ HƯNG - Sức khỏe & Đời sống
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bệnh màng trong ở trẻ sơ sinh Bệnh màng trong ở trẻ sơ sinh Bệnh xuất hiện vài phút đến hai giờ sau khi sinh với hội chứng suy hô hấp nặngmà không tìm thấy các nguyên nhân như nhiễm khuẩn, ngạt nước ối, hít phải phân su.Bệnh thể hiện là khó thở nhanh nông, nhịp thở trên 60 lần/phút. Biểu hiện Các khoang liên sườn, hõm trên ức, co kéo, cánh mũi phập phồng, toàn thân tímtái. Cho thở oxy không đỡ. Khám phổi thấy tiếng rì rào phế nang giảm, có ran ở đáy phổi.Chụp X-quang phổi bình thường hoặc thay đổi nhanh là tổn thương mờ hai phổi, nênchụp phổi nhiều lần để so sánh. Nếu nhẹ và điều trị đúng thì sau 72 giờ các triệu chứnggiảm, dần dần bệnh thoái lui. Nếu nặng, các dấu hiệu tím tái, khó thở tăng lên, huyết áp hạ, thân nhiệt hạ, trẻ sẽtử vong sau vài giờ. Nếu may mắn thoát, sau khi khỏi có thể để lại các di chứng như thiếuoxy não, xuất huyết não, hạ đường huyết… Trẻ đủ tháng phục hồi tốt và tỷ lệ tử vong íthơn trẻ thiếu tháng. Sự hình thành màng trong Ở phổi người bình thường, bên trong phế nang có chứa một chất Surfactant còngọi là chất giảm hoạt bề mặt (GHBM) hay chất diện hoạt, có tác dụng giúp cho các phếnang không bị xẹp. Chất GHBM ở phổi bào thai xuất hiện tương đối vào tuần thứ 20. Nóphủ vách trong của phế nang và có trong nước ối vào tuần thứ 28-36. Ở trẻ sinh non, phổi chưa trưởng thành, chất GHBM thiếu cả về lượng và chất, nênphế nang bị xẹp, huyết tương tràn vào phế nang, chất fibrin của huyết tương lắng đọngphía trong của các phế nang và các tiểu phế quản, tạo thành một lớp màng, gọi là màngtrong. Nhìn qua kính hiển vi thấy một màng màu hồng, acid, trên màng có hồng cầu, sợifibrin và một số mảnh vụn tế bào. Màng này cản trở sự lưu thông khí và sự trao đổi oxy,CO2 từ phế nang qua các mao mạch. Đưa đến dấu hiệu suy hô hấp và tử vong rất nhanh. Yếu tố thuận lợi gây bệnh màng trong Trẻ sinh non dưới 28 tuần, tỷ lệ mắc bệnh màng trong là 50-60%, nhất là cân nặngcủa trẻ dưới 1.000g hoặc trẻ sinh đôi. Trong thời gian chuyển dạ, mẹ chuyển dạ lâu, băng huyết, thai bị suy cấp hoặcsinh ra bị ngạt. Trong thời kỳ có thai mẹ bị bệnh đái tháo đường hoặc điều trị một bệnh nào đóbằng corticoide kéo dài. Yếu tố gen di truyền Chẩn đoán Chẩn đoán sớm: Định lượng chất GHBM trong nước ối. Tỷ lệ hai chấtlecithin/sphingomyelin (L/S). Bình thường L/S > 2. Nếu L/S < 2 thì trẻ sơ sinh có nguycơ mắc bệnh màng trong. Trẻ sau sinh: Nếu L/S < 2 và có các biểu hiện suy hô hấp cấp. Đo khí máu PaO2giảm, PaCO2 tăng, có biến đổi X-quang phổi, thì chẩn đoán là trẻ bị bệnh màng trong. Điều trị Đặt trẻ trong lồng ấp 36,50 - 370. Truyền glucose, đạm mỡ, bicarbonat. Hô hấp hỗ trợ. Nhỏ giọt dung dịch surfactant qua ống nội khí quản vào phổi trẻ. Dự phòng Đối với mẹ: Điều trị tốt bệnh đái tháo đường, không lạm dụng chất corticoidetrong thời gian mang thai. Xác định tỷ lệ L/S trong nước ối để tiên lượng nguy cơ trẻ bịbệnh màng trong. Với trẻ sinh non, thiếu tháng, cân nhẹ, nên chủ động bơm chất surfactant vào phổiqua ống nội khí quản để phòng tránh bệnh màng trong. Theo TS. ĐÀO KỲ HƯNG - Sức khỏe & Đời sống
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Y tế sức khỏe Sức khỏe trẻ em Sức khỏe phụ nữ Sức khỏe người cao tuổi Bệnh màng trong ở trẻ sơ sinhGợi ý tài liệu liên quan:
-
Tỷ lệ thiếu cơ và một số yếu tố liên quan trên bệnh nhân cao tuổi đái tháo đường típ 2
6 trang 264 0 0 -
Phương pháp lọc màng bụng cho những người bệnh suy thận
6 trang 231 0 0 -
Báo cáo: Khảo sát đặc điểm tăng huyết áp ở người có tuổi tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định
9 trang 181 0 0 -
Hoa cảnh chữa viêm gan, quai bị
5 trang 136 0 0 -
Ưu điểm và nhược điểm thuốc đái tháo đường
5 trang 113 0 0 -
4 trang 97 0 0
-
Giáo trình Nhi khoa y học cổ truyền: Phần 1 - NXB Y học
57 trang 74 0 0 -
Chất lượng sống của người cao tuổi ở nội thành thành phố Hồ Chí Minh
13 trang 60 0 0 -
Giáo trình Nhi khoa y học cổ truyền: Phần 2 - NXB Y học
32 trang 58 0 0 -
8 trang 52 0 0