Xét nghiệm tìm giun sán ở Viện sốt rét, ký sinh trùng và côn trùng TW.Bệnh truyền nhiễm nói chung và bệnh do giun sán nói riêng là những bệnh có đặc điểm dịch tễ học liên hệ mật thiết đến các yếu tố môi trường và xã hội, dễ có điều kiện phát triển ở các nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, tình trạng dân trí và điều kiện kinh tế xã hội còn thấp kém, nhiều nơi tập quán sinh hoạt còn lạc hậu. Đó chính là nguyên nhân tại sao nước ta...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bệnh sán và thuốc điều trị Bệnh sán và thuốc điều trị Xét nghiệm tìm giun sán ở Viện sốt rét, ký sinh trùng và côn trùng TW. Bệnh truyền nhiễm nói chung và bệnh do giun sán nói riêng là nhữngbệnh có đặc điểm dịch tễ học liên hệ mật thiết đến các yếu tố môi trường vàxã hội, dễ có điều kiện phát triển ở các nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa,nóng ẩm, tình trạng dân trí và điều kiện kinh tế xã hội còn thấp kém, nhiềunơi tập quán sinh hoạt còn lạc hậu. Đó chính là nguyên nhân tại sao nước tacũng nằm trong vùng lưu hành bệnh giun sán với tỷ lệ cao. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, dường như mọi người dân mới chỉdành nhiều sự quan tâm đến bệnh lý do giun gây ra mà quên đi bệnh lý do sán gâynên. Trong phạm vi bài viết này đề cập đến một vài nét cơ bản về bệnh do sán gâyra và phương thức điều trị. Biểu hiện của bệnh do sán gây ra Hiện có hai nhóm sán gây bệnh ở người là sán lá và sán dây, trong đó sán lálà các loài sán có thân dẹt, ký sinh và gây bệnh ở người và một số động vật, tùytheo vị trí ký sinh mà có các tên gọi khác nhau như sán lá gan nhỏ, sán lá gan lớn,sán lá phổi, sán lá ruột; còn sán dây là những loài sán có thân dẹt gồm nhiều đốtsán nối liền với nhau có thể dài tới hàng mét, có hai loài gây bệnh ở người là sándây lợn (vật chủ phụ là lợn) và sán dây bò (vật chủ phụ là bò), con sán trưởngthành ký sinh ở người nên người đóng vai trò là vật chủ chính; riêng với sán dâylợn nếu người ăn phải trứng sán thì có thể mắc bệnh sán ấu trùng hay còn gọi làngười gạo. Cũng giống như các bệnh lý do giun, bệnh do sán gây ra có liên quanmật thiết với đặc điểm sinh thái và tập quán sinh hoạt ăn uống của người dân.Vùng ngập nước và thường ăn gỏi cá sẽ dễ mắc sán lá gan; vùng nuôi lợn hay chănthả, kết hợp ăn rau sống hoặc thịt lợn sống thì dễ bị bệnh sán lợn; hay ăn lẩunhúng, bò tái thì dễ bị sán dây bò... Triệu chứng của bệnh phụ thuộc vào loài sángây bệnh. Nếu do sán lá gan thì thường có các biểu hiện như vàng da, viêm túi mật,viêm gan thậm chí có thể dẫn đến xơ gan. Bệnh sán lá phổi gây ra ho nhiều, đôi khi khạc đờm lẫn máu rất dễ nhầmvới lao phổi. Sán lá ruột gây ra tình trạng rối loạn tiêu hóa, suy dinh dưỡng, phù nề. Nguy hiểm nhất là bệnh do ấu trùng sán lợn, tùy thuộc vào vị trí các nangsán ấu trùng ký sinh ở vị trí nào mà gây nên các biểu hiện tương ứng. Ví dụ nangsán ký sinh ở mắt thì có thể làm giảm thị lực hoặc mù, nang sán có nhiều trong nãothì có thể gây động kinh... Chẩn đoán chủ yếu dựa vào triệu chứng lâm sàng, yếu tố đặc điểm dịch tễvà các xét nghiệm chuyên biệt. Điều trị Điều trị bệnh sán hiện nay không mấy khó khăn nếu được phát hiện sớm,hiện có nhiều dược chất có tác dụng tốt và độc tính thấp hơn các thuốc trước đây.Các thuốc điều trị sán có nhiều như fubendazol, niclosamid, cloroquin,praziquantel... ở đây chỉ đề cập đến hai thuốc đặc hiệu trong điều trị sán Praziquantel: Hiện nay được coi là một thuốc điều trị sán phổ rộng, có tácdụng với nhiều loại sán, tuy nhiên cơ chế tác dụng của thuốc thì chưa rõ. Tuy chưacó tài liệu nào đề cập đến hiện tượng gây quái thai và gây độc bào thai ở động vậtcũng như ở người, nhưng tốt nhất không nên dùng thuốc trong thời gian mangthai; tương tự thuốc bài tiết qua sữa nên cũng không sử dụng với người cho conbú, nếu nhất định phải sử dụng thì ngừng cho con bú trong thời gian uống thuốc và72 giờ tiếp theo sau khi ngừng uống thuốc. Các biểu hiện không mong muốnthường gặp khi dùng thuốc là chóng mặt, đau đầu, đau chân tay, đau bụng... tuynhiên chỉ ở mức độ trung bình hoặc thoảng qua. Điều cần lưu ý, các thuốc nhưphenytoin, carbamazepin, dexamethason khi sử dụng cùng praziquantel có thể làmgiảm nồng độ của praziquantel trong huyết tương từ 10 – 50%. Niclosamid: thuốc được đưa vào điều trị giun sán từ những năm 1960, nóđặc biệt có hiệu quả với các loại sán dây. Hiện tại cơ chế tác dụng của thuốc vẫnchưa biết rõ, tuy nhiên các tài liệu đều khẳng định đây là thuốc an toàn và hiệuquả. Thuốc được chỉ định điều trị các loại bệnh do sán dây như sán bò, sán lợncũng như một số loại sán dây khác; tuy nhiên để điều trị ấu trùng sán lợn thìpraziquantel hiệu quả hơn. Thuốc có thể được chỉ định điều trị cho cả phụ nữmang thai và phụ nữ cho con bú mà vẫn bảo đảm an toàn, nhất là trong các trườnghợp mắc bệnh sán lợn do bệnh nhân có nguy cơ cao chuyển thành bệnh sán ấutrùng. Niclosamid hầu như không gây tác dụng phụ đặc biệt nào, có thể gặp một sốbiểu hiện rối loạn tiêu hóa nhẹ như buồn nôn và nôn, đau bụng, tiêu chảy. Cần chúý, không được dùng thuốc cùng với các thuốc gây nôn vì có thể gây tình trạng tràongược các đốt sán lên đường tiêu hóa gây tai biến mắc bệnh ấu trùng, cũng vì vậyđể đề phòng tình huống này khi tẩy bằng niclosamid nên cho bệnh nhân uốngthuốc chống nôn trước đó, và sau 3 – 4 giờ thì cho bệnh nh ...