Sởi là một bệnh lây cấp tính do siêu vi trùng sởi gây ra (dân gian thường gọi là bệnh ban đỏ). Siêu vi này bị giảm độc lực khi ra ngoài môi trường (ánh sáng, nhiệt độ cao,…) và chỉ gây phát ban cho khỉ và người. Bệnh thường xảy ra ở trẻ em từ 2-6 tuổi. Bệnh rất hay lây và lây trực tiếp qua đường hô hấp do hít phải bụi nước bọt có chứa siêu vi trùng. Lây mạnh nhất là lúc chưa phát ban. Bệnh cho miễn dịch suốt đời (90% trẻ em trên 10...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bệnh sởi và các biến chứng nguy hiểm Bệnh sởi và các biến chứng nguy hiểmSởi là một bệnh lây cấp tính do siêu vi trùng sởigây ra (dân gian thường gọi là bệnh ban đỏ). Siêuvi này bị giảm độc lực khi ra ngoài môi trường(ánh sáng, nhiệt độ cao,…) và chỉ gây phát bancho khỉ và người. Bệnh thường xảy ra ở trẻ em từ2-6 tuổi.Bệnh rất hay lây và lây trực tiếp qua đường hô hấpdo hít phải bụi nước bọt có chứa siêu vi trùng. Lâymạnh nhất là lúc chưa phát ban. Bệnh cho miễn dịchsuốt đời (90% trẻ em trên 10 tuổi đã có miễn dịch).Bệnh tiến triển qua 4 giai đoạn:1. Thời kỳ ủ bệnh: 7-14 ngày, không có triệu chứng.2. Thời kỳ trước phát ban: khoảng 4 ngày. Bệnh nhâncó triệu chứng giống như cảm cúm (sốt cao, ho khan,mắt đỏ, sổ mũi), có thể bị ói, tiêu chảy (ở những trẻ bịsuy dinh dưỡng ), ở trẻ em có thể gặp kinh giậtdo sốtcao. Vào ngày thứ 2 xuất hiện các đốm Koplik (dấuhiệu đặc trưng của bệnh) ở niêm mạc trong của má(đó là những chấm trắng như muối ăn trên nền đỏ, vịtrí thường gặp là gần răng hàm, thường có thể kéodài đến 4 ngày).3. Thời kỳ phát ban: kéo dài 5-6 ngày. Xuất hiện cácnốt ban đỏ bằng với mặt (dát) hoặc gồ lên (sẩn), bắtđầu từ sau tai và lan dần xuống cổ, thân, tứ chi 3-4ngày sau đó. Các nốt ban này hình dáng không đềunhau, không ngứa, có chừa những khoản da lành, cóthể xuất huyết nếu bệnh nặng. Trong thời kỳ này, cóthể sờ thấy hạch toàn thân, đau bụng, mí mắt sưnghúp, trẻ thường lừ đừ, bỏ ăn. Sau khi ban nổi 3-4ngày, thì nhiệt độ bắt đầu giảm.4. Thời kỳ hồi phục: ban lặn dần theo thứ tự khi mọcvà da để lại những vết thâm. Có thể tróc da nhẹ. Trẻbắt đầu ăn uống lại.Bệnh sởi thường gây các biến chứng nguy hiểmnhư: Viêm tai giữa: sốt cao, quấy khóc, chảy mủ mộthoặc hai bên tai, có thể gây thủng màng nhĩ nếu điềutrị trễ. Viêm thanh quản: khó thở về đêm, khàn giọng,có thể gây suy hô hấp. Viêm phổi: có thể do chính siêu vi gây viêm môkẽ hoặc do bội nhiễm vi trùng. Bệnh nhân sốt cao,phổi có ran nổ, có khi suy hô hấp. Lao phổi: vì sởi làm mất phản ứng tạm thời đốivới thử nghiệm Tuberculin nên có thể làm bùng phátmột bệnh lao đang tiềm ẩn. Viêm não: có thể xảy ra sớm hoặc hai tuần saukhi khởi bệnh. Bệnh nhân sốt cao, nhức đầu, ói, cổcứng, lơ mơ, co giật. Viêm ruột: gây tiêu chảy có thể kéo dài và làmsuy dinh dưỡng. Loét giác mạc: do thiếu sinh tố A dẫn đến mùmắt. Cam tẩu mã: đây là một tình trạng nhiễm trùngcó hoại tử các mô ở môi, miệng, má.Vì chưa có thuốc đặc trị nên chỉ điều trị triệuchứng và biến chứng:1. Điều trị nâng đỡ: không kiêng cữ quá đáng, dùngthức ăn giàu chất dinh dưỡng nhưng dễ tiêu, nêntăng cường sinh tố A. Vệ sinh răng, miệng, da, mắt.2. Điều trị triệu chứng: hạ sốt bằng phương pháp vậtlý hoặc dùng thuốc Acetaminophen.3. Giảm ho: nên dùng Dextromethorphan, không dùngCorticoid.4. Điều trị biến chứng:dùng kháng sinh thích hợp khicó hiện tượng bội nhiễm vi trùng. Đối với viêm não chỉđiều trị nâng đỡ.5. Phòng bệnh: để ngừa sởi cho những người nhạycảm đã lỡ tiếp xúc với bệnh nhân, ta có thể tiêmkháng thể gamma globulin (trong vòng 5 ngày kể từkhi tiếp xúc). Do bệnh sởi gây tổn thất lớn về sứckhỏe và kinh tế nên nhất thiết phải tiêm ngừa cho trẻem. Thuốc tiêm ngừa sởi được bào chế từ siêu vi sởisống đã được giảm độc lực.Vì sao đã tiêm ngừa vẫn bị bệnh?Nhiều yếu tố có thể gây ảnh hưởng làm cho nhữngbệnh nhân đã được tiêm ngừa đầy đủ nhưng vẫn bịbệnh sởi như do bảo quản vắcxin chưa tốt, thời điểmtiêm ngừa bé đang bị bệnh hoặc uống thuốc gì đó,thuốc không đạt chất lượng, hoặc cách thức tiêmkhông đúng. Tuy nhiên, nếu đã tiêm ngừa rồi mà vẫnbị bệnh thì triệu chứng rất nhẹ, thoáng qua, ít biếnchứng, có khi chỉ cần điều trị ngoại trú. ...