Danh mục

BỆNH SỐT RÉT ( MALARIA ) (Kỳ 9)

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 226.16 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Các biện pháp điều trị sốt rét theo mục tiêu: 1.3.1. Điều trị cắt cơn và điều trị tiệt căn chống tái phát:Với P. vivax, dùng thuốc diệt thể vô tính trong hồng cầu chỉ là điều trị cắt cơn, cần dùng thêm thuốc diệt thể ngủ trong gan (hypnozoite) mới đủ điều trị tiệt căn chống tái phát. Với P. falciparum, dùng thuốc diệt thể vô tính trong hồng cầu đủ đảm bảo điều trị cắt cơn và tiệt căn, vì P. falciparum không có thể ngủ trong gan.1.3.2. Điều trị cắt đường lan truyền qua muỗi:...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
BỆNH SỐT RÉT ( MALARIA ) (Kỳ 9) BỆNH SỐT RÉT ( MALARIA ) (Kỳ 9) 1.3. Các biện pháp điều trị sốt rét theo mục tiêu: 1.3.1. Điều trị cắt cơn và điều trị tiệt căn chống tái phát: Với P. vivax, dùng thuốc diệt thể vô tính trong hồng cầu chỉ là điều trị cắtcơn, cần dùng thêm thuốc diệt thể ngủ trong gan (hypnozoite) mới đủ điều trị tiệtcăn chống tái phát. Với P. falciparum, dùng thuốc diệt thể vô tính trong hồng cầu đủ đảm bảođiều trị cắt cơn và tiệt căn, vì P. falciparum không có thể ngủ trong gan. 1.3.2. Điều trị cắt đường lan truyền qua muỗi: Ngoài thuốc diệt thể vô tính trong hồng cầu, phải dùng thêm thuốc diệt giaobào trong máu (thể hữu tính). Biện pháp này là chỉ định bắt buộc khi: gặp một cabệnh tại vùng không có sốt rét lưu hành, nhưng có loại muỗi truyền bệnh sốt rét; ởnơi và tập thể đang có dịch sốt rét. 1.3.3. Điều trị dự phòng cá nhân: Định kỳ uống thuốc sốt rét (hàng ngày, hàng tuần) để có một lượng thuốcthường trực trong máu sẵn sàng diệt những KST sốt rét đột nhập. Biện pháp nàykhông áp dụng cho mọi người ở vùng sốt rét, chỉ thực hiện cho những đối tượngchưa có miễn dịch sốt rét và mới vào vùng sốt rét trong 6 tháng đầu. Trong bộ độicũng cần thực hiện điều trị dự phòng cho những phân đội và cá nhân rời căn cứ,chuyển quân, hành quân, diễn tập v.v... trong vùng sốt rét lưu hành. Với đối tượng đã mắc bệnh sốt rét đi từ vùng sốt rét ra vùng lành: cũng cầnuống một đợt điều trị dự phòng cộng với điều trị giao bào nếu vùng này có muỗisốt rét. 1.3.4. Điều trị hàng loạt (mass treatment): Trước đây, biện pháp này thường chỉ định ở vùng sốt rét nặng và trong vụdịch, cho mọi cá nhân có KST hoặc không với ý nghĩa điều trị dự phòng. Ngàynay biện pháp này cần hạn chế để giảm nguy cơ kháng thuốc, nguy cơ suy giảmmiễn dịch quần thể va chi phí không hợp lý. Do vậy, chỉ thực hiện trong một số vụdịch lớn (tỷ lệ KST cao 30-40%, tỷ lệ chuyển vào ác tính cao 3-5%, tử vong cao),nhưng chỉ áp dụng trong thời gian nhất định cho những vùng và tập thể cỡ vừa vànhỏ, sống tập trung, mật độ muỗi cao, khó khăn trong điều tra phát hiện ca bệnh vàphòng chống muỗi. 1.3.5. Điều trị phỏng đoán sốt rét (presumptive treatment): Trước đây tại vùng sốt rét, có chủ trương điều trị sốt rét cho mọi trườnghợp có sốt, với mục đích điều trị bao vây để hạn chế sốt rét ác tính và tử vong.Ngày nay biện pháp này không còn thích hợp vì : Mạng lưới cơ sở y tế kiện toànhơn, điểm kính hiển vi phủ rộng hơn, đã có định nghĩa ca bệnh sốt rét để xácđịnh đối tượng điều trị, hơn nữa cũng cần giảm nguy cơ kháng thuốc và phát triểnKST sốt rét kháng thuốc. 1.3.6. Điều trị chủ động và thụ động; điều trị do cán bộ y tế và tự điều trị: Trong tình hình hiện nay, tại cơ sở cần chủ động phát hiện nguồn bệnh(kiện toàn y tế cơ sở, chiến sĩ chữ thập đỏ, người tình nguyện, rải rộng mạng lướiđiểm kính, các tổ chức lưu động...) để điều trị sớm và chủ động, không nên chỉ thụđộng tiếp nhận bệnh nhân ở các phòng khám bệnh và các trạm xá, bệnh viện. Khu vực điều trị do cán bộ y tế nhà nước cần được bổ sung bởi khu vực y tếtư nhân có quản lý đảm bảo chất lượng, và việc bệnh nhân tự điều trị đòi hỏiđược bồi dưỡng những kiến thức về sốt rét. 1.3.7. Điều trị chống kháng: - Hiện nay P. falciparum ở Việt Nam đã kháng mạnh với Chloroquin, tuykhông đều khắp, và có hiện tượng đa kháng với nhiều thuốc khác. Chủ trương vàbiện pháp điều trị chống kháng bao gồm: không dùng thuốc lan tràn, bừa bãi; điềutrị đúng phác đồ hướng dẫn đảm bảo triệt căn; chú ý cắt đường lan truyền (để hạnchế KST kháng thuốc lan rộng); định kỳ điều tra KST kháng thuốc ở địa phươngđể đưa ra phác đồ thích hợp; quản lý ca bệnh tốt và quản lý các phòng khám bệnhvà bán thuốc tư nhân... 2. NGUYÊN TẮC ĐIỀU TRỊ SỐT RÉT: 2.1. Bệnh nhân sốt rét cần được phát hiện và điều trị thật sớm: - Chẩn đoán xác định bệnh phải đúng với định nghĩa “ca bệnh”. - Coi trọng xét nghiệm KST trước điều trị. - Điều trị ngay tại y tế cơ sở (đại đội, thôn, xã...), điểm kính trả kết quảnhanh (30 - 60 phút) và cho thuốc ngay, có theo dõi. - Khi xa y tế (dọc đường, công tác...) phải mang theo thuốc điều trị. 2.2. Chọn thuốc và liều lượng: Dựa vào loại KST, tuổi, trọng lượng cơ thể, thể trạng bệnh nhân (gan, thận,tim, thai nghén...), khả năng miễn dịch sốt rét của bệnh nhân (sốt rét sơ nhiễm haytái phát), tình hình KST kháng thuốc tại địa phương. Trường hợp không có xétnghiệm KST thường căn cứ vào lâm sàng và dựa vào cơ cấu loại KST đã nghiêncứu ở địa bàn. 2.3. Chọn thuốc theo chiến lược dùng thuốc sốt rét hiện nay ở Việt Nam: - Để điều trị, thuốc đầu tay hiện nay là Artemisinin và dẫn xuất, là thuốc từdược liệu sẵn có ở Việt Nam, loại t ...

Tài liệu được xem nhiều: