Danh mục

Bệnh tả

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 302.96 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bệnh tảBệnh tả là một bệnh nhiễm trùng đường ruột cấp tính gây ra do vi trùng gram âm Vibrio cholerae gây ra, bệnh truyền trực tiếp qua đường phân-miệng hoặc do ăn uống bị nhiễm. Dạng nặng thường gặp là tiêu chảy xuất hiện đột ngột với số lần và số lượng nước mất rất nhiều và dẫn đến suy thận, đe dọa tử vong. Giai đoạn ủ bệnh ngắn từ 2 giờ đến 5 ngày. Có khoảng 75 % người bị nhiễm bệnh không có triệu chứng, nhưng mầm bệnh vẫn hiện diện trong phân từ 7-14 ngày,...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bệnh tả Bệnh tả Bệnh tả là một bệnh nhiễm trùng đường ruột cấp tính gây ra do vi trùng gramâm Vibrio cholerae gây ra, bệnh truyền trực tiếp qua đường phân-miệng hoặc do ănuống bị nhiễm. Dạng nặng thường gặp là tiêu chảy xuất hiện đột ngột với số lần và sốlượng nước mất rất nhiều và dẫn đến suy thận, đe dọa tử vong. Giai đoạn ủ bệnh ngắntừ 2 giờ đến 5 ngày. Có khoảng 75 % người bị nhiễm bệnh không có triệu chứng,nhưng mầm bệnh vẫn hiện diện trong phân từ 7-14 ngày, và được tống xuất ra trongmôi trường, từ đây có thể lây sang cho người khác. Bệnh tả là một bệnh có mức độ lâynhiễm và độc tính cao ảnh hưởng ở trẻ nhỏ lẫn người lớn. Khác với những bệnh tiêuchảy khác, bệnh tả có thể gây tử vong nhười khỏe mạnh chỉ trong vòng vài giờ. Nguycơ tử vong caoở những người suy giảm miễn dịch như trẻ suy dinh dưỡng hoặc ngườinhiễm HIV. Lịch sử bệnh tả Có 7 trận đại dịch tả được quan sát thấy, đã làm hàng triệu người chết ở ChâuÂu, Châu Phi năm 1971 và châu Mỹ năm 1991. Từ đó về sau, bệnh lây lan thành dịchở nhiều nước trên thế giới và hiện nay người ta không thể loại bỏ hoàn tòan tác nhângây bệnh trong môi trường. Vi trùng tả nhìn dưới kính hiển vi Có 2 nhóm huyết thanh của V. cholerae, là 01 và 0139, có thể là nguyên nhângây bùng phát dịch bệnh. Nguồn bệnh chính là ở người và môi trường nước có lợi chotảo phát triển như nước lợ ở các cửa sông. Các nghiên cứu mới đây cho thấy rằng khíhậu ấm nóng lên cũng tạo môi trường thuận lợi cho vi trùng tả phát triển. Đa số cácđợt dịch bùng phát là do vi trùng tả type 01 gây ra. Còn type 0139 phát hiện lần đầutiên năm 1992 tại Bangladesh, có độc lực giống như type 01 và có bệnh cảnh lâm sàngcũng tương tự. Phẩy khuẩn tả type huyết thanh0139 hiện nay chỉ gặp ở Đông Nam Ávà Đông Á. Dịch có xu hướng lan sang những vùng khác, vì vậy tổ chức Y tế Thế Giớikhuyến cáo nên tăng cường theo dõi và giám sát dịch một cách chặc chẽ. Những mầmbệnh khác của phẩy khuẩn tả có thể gây tiêu chảy mức độ vừa, nhưng không gây thànhdịch. Những yếu tố nguy cơ và dân chúng dễ mắc bệnh. Bệnh tả lây truyền chủ yếu qua thức ăn và nước uống bị nhiễm bệnh, có liênquan chặc chẽ với yếu tố vệ sinh môi trường, thiếu hoặc không dùng nước sạch, vệsinh kém là những yếu tố lây truyền bệnh. Các khu vực có nguy cơ là các khu ổ chuộtven đô thị, nơi không có cơ sở hạ tầng cơ bản, cũng như các trại tị nạn và những ngườicư, nơi yêu cầu tối thiểu về nước sạch và vệ sinh không được đáp ứng . Có ý kiến sailầm, cho rằng dịch tả xảy ra là do sự phân hủy của xác những nạn nhân xấu số trongnhững thảm họa thiên nhiên. Ngược lại, thật ra hậu quả của những thảm họa gây pháhủy cơ sở hạ tầng, nguồn cungcấp nước sạch, di dời dân đến các trại không đảm bảovệ sinh và quá đông - có thể làm tăng nguy cơ lây truyền mầm bệnh. Từ năm 2005, người ta ghi nhận có sự xuất hiện trở lại bệnh tả song song với sựgia tăng liên tục của dân cư dễ bị tổn thương sống trong điều kiện kém vệ sinh. Bệnhtả vẫn còn là một mối đe dọa cho sức khỏe cộng đồng trên toàn thế giới và là mộttrong những chỉ số chính của phát triển xã hội. Căn bệnh này không còn là một vấn đềcủa quốc gia có điều kiện vệ sinh đúng mà nó là một mối đe dọa ở hầu hết các nướcđang phát triển. Trong năm 2006, số trường hợp báo cáo với WHO(Tổ chức Y Tế ThếGiới) đã tăng lên đáng kể, đạt mức của cuối những năm 90. Tổng cộng có 236 896trường hợp và 6.311 ca tử vong đã được báo cáo tại 52 quốc gia, cho thấy tăng 79% sovới năm 2005. Người ta ước tính rằng một tỷ lệ chỉ có khoảng dưới 10% trường hợpbị tả được báo cáo cho WHO. Chính vì việc đánh giá thấp căn bệnh này đã làm choviệc phòng ngừa dịch bệnh gặp nhiều khó khăn. Phòng ngừa và khống chế bệnh tả Khi xuất hiện bệnh, 80% trường hợp là nhẹ hoặc vừa và chỉ có 10-20% bệnhtiêu chảy mất nước nặng. Nếu bệnh không được chữa trị, tỉ lệ tử vong cao (50%). Nếubệnh được chữa trị kịp thời đúng lúc, tỉ lệ tử vong Từ hàng chục năm nay các biện pháp phòng ngừa bệnh tả vẫn không thay đổi.Việc phòng ngừa chủ yếu là cung cấp nước sạch, vệ sinh trong ăn uống. Giáo dục sứckhỏe và vệ sinh ăn uống cho người dân là biện pháp quan trọng, nhất là nhắc ngườidân phải rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, trước khi chế biến thức ăn một cách thường qui.Khi bùng phát dịch, chiến lược thông thường là điều trị tíchcực, kịp thời nhằm giảm tửvong và phòng ngừa bệnh lây lan. Đa số các trường hợp (80 %) bệnh có thể được điều trị bàng dung dịch điển giảiqua đường uống(thường dùng gói ORESOL). Trong trường hợp không thể bù nướcbằng đường uống, cho bệnh nhân truyền tĩnh mạch dung dịch Lactat Ringer. Trongnhững trường hợp nặng, dùng kháng sinh hiệu quả có thể giảm được số lần đi tiêu vàthể tích nước mất. Không dùng kháng sinh đại trà để phòng ngừa bệnh tả, vì sẽ làmtăng nguy cơ kháng kháng sinh. Để bệnhc hóng khỏi, nếu có thể nên thành lập trungtâm điều trị ở vùng dịc ...

Tài liệu được xem nhiều: