Thông tin tài liệu:
Hiện nay bệnh tiêu chảy cấp đang phát sinh tại nhiều tỉnh thành ở nước ta, trong đó tiêu chảy do phẩy khuẩn tả chiếm khoảng 15% số bệnh nhân tiêu chảy cấp vào viện. Theo kết quả xét nghiệm của Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, vi khuẩn tả hiện nay thuộc týp huyết thanh tả Ogawa.Khởi phát của bệnh tả thường rất đột ngột Bệnh tả là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính đường tiêu hóa, khởi phát đột ngột. Đây là bệnh do vi khuẩn Vibrio cholerae gây ra. Người bệnh không có cảm giác đau...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bệnh tả do týp huyết thanh Bệnh tả do týp huyết thanh Ogawa Hiện nay bệnh tiêu chảy cấp đang phát sinh tại nhiều tỉnh thành ởnước ta, trong đó tiêu chảy do phẩy khuẩn tả chiếm khoảng 15% số bệnhnhân tiêu chảy cấp vào viện. Theo kết quả xét nghiệm của Viện Vệ sinh dịchtễ Trung ương, vi khuẩn tả hiện nay thuộc týp huyết thanh tả Ogawa. Khởi phát của bệnh tả thường rất đột ngột Bệnh tả là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính đường tiêu hóa, khởi phát đột ngột.Đây là bệnh do vi khuẩn Vibrio cholerae gây ra. Người bệnh không có cảm giácđau bụng nhiều nhưng đi ngoài nhiều lần và phân toàn nước. Một số người có cảmgiác nôn. Nếu không được điều trị, bù dịch kịp thời, cơ thể sẽ mất nước nhanhchóng, nhiễm độc axít, trụy mạch, hạ huyết áp, hạ đường huyết và suy giảm chứcnăng thận. Thể nhiễm khuẩn không triệu chứng thường xảy ra nhiều hơn thể lâmsàng, nhất là đối với bệnh tả do týp sinh học El Tor. Các thể nhẹ chỉ là tiêu chảythông thường và hay gặp ở trẻ em. Những bệnh nhân nặng nếu không được điều trịsẽ tử vong nhanh trong vòng vài giờ, tỷ lệ mắc/chết có thể trên 50%, nếu đượcđiều trị đúng thì tỷ lệ này là dưới 1%. Sự nguy hiểm của bệnh là dễ xảy ra thành dịch, nhất là những nơi có điềukiện vệ sinh kém. Nếu đó là vùng xa đô thị, dân trí thấp, chất lượng cuộc sống vàdịch vụ y tế kém phát triển thì bệnh sẽ trở thành mối đe dọa cho tính mạng ngườibệnh. Bệnh tả dễ phát tán thành dịch Phẩy khuẩn tả (Vibrio cholerae) nhóm huyết thanh O1 bao gồm 2 týp sinhhọc cổ điển và El Tor, mỗi týp sinh học gồm có các týp huyết thanh như Inaba,Ogawa và Hikojima nhưng Hikojima là týp huyết thanh ít gặp. Hình ảnh lâm sàngcủa bệnh tả do các týp gây ra thường tương tự nhau vì chúng cùng tạo ra độc tốruột như nhau. Bên cạnh đó thì nhóm huyết thanh O139 của Vibrio cholerae cũnglàm xuất hiện một số điểm dịch. Hiện nay týp sinh học El Tor là phổ biến ở các vụdịch tả trên thế giới. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng sự tồn tại ổ chứa vi khuẩn tảtrong môi trường của các loài động vật thủy sinh và các động vật phù du sốngtrong nước mặn và các vùng cửa sông. Đường lây truyền bệnh qua ăn uống cácthức ăn hoặc nước uống có chứa vi khuẩn gây bệnh. Đặc biệt là ăn uống nhữngthức ăn chế biến từ hải sản có chứa vi khuẩn tả mà không được nấu chín hay vệsinh chế biến bảo đảm chất lượng. Những loài thủy sinh sống ở vùng cửa sông,ven biển có khả năng tồn tại ổ chứa thiên nhiên của Vibrio cholerae týp huyếtthanh Inaba. Bệnh sẽ trầm trọng hơn và dễ bùng phát thành dịch nếu vi khuẩn gâybệnh được phát tán ở nơi có điều kiện đời sống thấp. Những người thiếu axít dịch vị có nguy cơ mắc bệnh cao, trong khi trẻ đangbú mẹ thì được bảo vệ. Bệnh tả thuộc thể nặng, thường xảy ra nhiều hơn ở ngườicó nhóm máu O. Sau khi nhiễm khuẩn lâm sàng ban đầu do Vibrio cholerae O1týp sinh học cổ điển sẽ tạo ra kháng thể với týp sinh học cổ điển và týp sinh học ElTor, nhưng nếu nhiễm khuẩn lâm sàng ban đầu do týp El Tor thì chỉ bảo vệ đượctýp này mà thôi. Những nhiễm khuẩn ở chủng O1 không có khả năng bảo vệ đốivới chủng O139 và ngược lại. Bệnh nhân có dương tính với vi khuẩn tả cũng là đối tượng truyền bệnhnguy hiểm, kể cả khi đã bình phục nhưng vi khuẩn còn tồn tại trong phân củangười bệnh vài ngày, thậm chí là vài tháng sau đó. Do đó bệnh rất dễ lây nếukhông có cách phòng hiệu quả. Theo kết quả xét nghiệm của Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, vi khuẩn tảđang hoành hành tại nhiều tỉnh thành nước ta hiện nay thuộc týp huyết thanhOgawa, một týp cổ điển. Thực hiện tốt nguyên tắc bàn tay sạch Đối với người bệnh tả cần tiến hành tẩy sát khuẩn phân, chất nôn, quần áovà đồ dùng cá nhân bằng nhiệt độ cao, các chất diệt khuẩn đặc hiệu. Địa bàn xảyra dịch cũng cần được làm sạch môi trường bằng thuốc diệt khuẩn. Những ngườitừng ăn uống, tiếp xúc với bệnh nhân cần được theo dõi sức khỏe. Điều tra nguồnnước, nguồn thức ăn mà người bệnh sử dụng trước khi phát bệnh để loại trừ triệtđể nguồn bệnh. Trong điều trị phải bù dịch ngay số lượng đầy đủ Năm 1993, tại 78các dung dịch điện giải để điều chỉnh lượng nước mất, nước xuất hiện bệnh tả cósự toan hóa máu và hạ đường huyết. Những bệnh nhân gần 377.000 người mắc,nhẹ có thể bổ sung lượng dịch bằng đường uống. Đi trong đó tử vong trênliền với biện pháp bù dịch nhanh chóng là bệnh nhân 6.700 ca. Cũng trong nămcần được sử dụng kháng sinh.Tuy nhiên khi dịch bệnh 1993, hơn 50% ca bệnhxảy ra không nên dùng kháng sinh rộng rãi cho toàn thể ...