Không như quả tim mà người ta có thể nghe nhịp đập, hay dạ dày đôi khi gây cảm giác đau, thận hoạt động âm thầm. Cho đến một ngày nào đó… nó bộc phát. Loại bỏ những chất thải độc hại đối với cơ thể, duy trì sự cân bằng của nước, đảm bảo mức độ ổn định của các khoáng chất cần thiết như can-xi… Tất cả những chức năng cần thiết đối với cơ thể này đều do hai quả thận đảm nhận. Bệnh thận dù tổn thương ban đầu ở nhu mô hay hệ thống...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bệnh thận và huyết áp Bệnh thận và huyết áp Không như quả tim mà người ta có thể nghe nhịp đập, hay dạ dày đôi khigây cảm giác đau, thận hoạt động âm thầm. Cho đến một ngày nào đó… nó bộcphát. Loại bỏ những chất thải độc hại đối với cơ thể, duy trì sự cân bằng củanước, đảm bảo mức độ ổn định của các khoáng chất cần thiết như can-xi… Tấtcả những chức năng cần thiết đối với cơ thể này đều do hai quả thận đảm nhận. Bệnh thận dù tổn thương ban đầu ở nhu mô hay hệ thống mạch máu thậnthì sớm muộn cũng dẫn đến tăng huyết áp. Mặt khác tăng huyết áp sẽ thúc đẩymạnh quá trình xơ hóa cầu thận tiến dần đến suy thận giai đoạn cuối. Vì vậy có thểnói thận vừa là thủ phạm gây tăng huyết áp vừa là nạn nhân của tăng huyết áp. Từ lâu y học đã cho rằng tăng huyết áp có thể gây tổn thương thận, dẫn đếnmột tình trạng mô bệnh học gọi là xơ hóa mạch máu thận theo trường pháiHamburger hay xơ hóa thận theo trường phái Anh – Mỹ. Tổn thương thận diễnbiến từ từ, nếu không điều trị sẽ gây hậu quả suy thận mạn giai đoạn cuối. Ngược lại, một số bệnh lý ở nhu mô thận, cầu thận, ống thận, kẽ thận, mạchmáu thận do mắc phải hoặc di truyền có thể là nguồn gốc gây tăng huyết áp. Trongnhững trường hợp này gọi là tăng huyết áp triệu chứng. Mối tương quan thuận – nghịch xấu này cần được nhận biết để xử lý, điềuchỉnh nhằm bình thường hóa huyết áp. Ngày nay, y học đã biết rõ hơn cơ chế bệnhsinh thuận nghịch này và đã có các thuốc có nhiều hiệu quả trong chống tănghuyết áp, bảo vệ tim, bảo vệ thận với mục đích ít hoặc chậm dẫn đến suy thận giaiđoạn cuối. Theo ước tính, 3% dân số Mỹ có bệnh về thận bị creatinine huyết tăng thìtrong đó 70% có tăng huyết áp nhưng chỉ 59% số này được điều trị và chỉ 34% đạtđược huyết áp mục tiêu. 2 – 5% tổng số bệnh nhân tăng huyết áp do các bệnh thậnmạn tính. Ở Việt Nam, theo Khoa thận tiết niệu – Bệnh viện Bạch Mai (năm 2000):72,9% bệnh nhân điều trị nội trú tại khoa bị suy tĩnh mạch, 86,7% bệnh nhân lọcmáu chu kỳ có tăng huyết áp. Hiện nay tại Bệnh viện Bạch Mai đang quá tải bệnhnhân bị suy thận mạn có tăng huyết áp và suy tim cần điều trị thay thế. Tại sao các bệnh thận và suy thận có tăng huyết áp? Để giải thích, y học nêu vai trò quan trọng của hệ thống rennin-angiotensin-aldosteron (RAAs). Rennin là một enzym được sản xuất ở tổ chức cầu thận có tác dụng kíchhoạt angiotesinogen thành angiotensin I. Ở đây nhờ enzym chuyển đổi có tác dụngchuyển angiotensin I thành angiotensin II, một chất gây co mạch rất mạnh làmtăng huyết áp. Những bệnh thận nào có thể gây tăng huyết áp? Khi có một người bị tăng huyết áp, thầy thuốc sẽ tìm các bệnh thận sau đây: - Viêm cầu thận cấp với các triệu chứng phù, đái máu, protein niệu tăngtrên 1g/l, tăng huyết áp. - Viêm cầu thận mạn với các triệu chứng phù, da nhợt, protein niệu tăngtrên 1g/l, hang cầu niệu nhiều, ure huyết và creatinin huyết tăng, tăng huyết áp,siêu âm thấy thận nhỏ. - Viêm cầu thận đái tháo đường với các triệu chứng glucose huyết lúc đóităng trên 7,1mmol/l, nước tiểu có microalbumin, protein. Có thể kèm theo rối loạnmỡ máu. - Viêm cầu thận lupus. Đây là một bệnh tự miễn, tiến triển từng đợt với sốt,đau khớp, ban đỏ má, tăng huyết áp. - Sỏi đường tiết niệu: Sỏi thận, sỏi niệu quản, sỏi bàng quang với các triệuchứng như cơn đau quặn thận, đái máu, được phát hiện qua siêu âm, chụp Xquang. - Ứ nước thận với triệu chứng đái máu, hai thận to, được chẩn đoán nhờsiêu âm, Xquang. - Đa nang thận với các triệu chứng đái máu, hai thận to, được chẩn đoánnhờ siêu âm. - Suy thận giai đoạn cuối được điều trị thay thế bằng các biện pháp lọc máuchu kỳ hoặc lọc màng bụng ngoại trú liên tục hoặc ghép thận. Điều trị tăng huyết áp trong bệnh thận và suy thận như thế nào? Ngoài chế độ ăn uống giảm natri, hoạt động thể lực thích hợp thì việc chọnthuốc đơn trị liệu hoặc đa trị liệu cần được cân nhắc cẩn thận. Đôi khi phải dùng 2– 3 thứ thuốc mới đạt kết quả mong muốn. Việc điều trị tăng huyết áp trong suy thận nên tuân thủ các nguyên tắc: - Đạt huyết áp mục tiêu. - Cần chọn thuốc hạ áp thích hợp với từng đối tượng. Nên chọn thuốc ứcchế men chuyển hoặc chẹn thụ thể AT1 hoặc chẹn canxi, thuốc có tác dụng bảo vệthận, làm giảm protein niệu và diễn biến suy thận, đặc biệt ở bệnh nhân bị suy thậndo đái tháo đường. - Không nên dùng thuốc gây hạ huyết áp nhanh, đột ngột vì có thể gây suythận cấp chức năng tạm thời hoặc làm nặng thêm suy thận mạn tính. - Việc phối hợp thuốc phải lựa chọn liều và không ngừng thuốc hoặc giảmthuốc đột ngột. - Chế độ ăn uống và lọc ngoài thận cần được tuân thủ chặt chẽ theo hướngdẫn của bác sĩ chuyên khoa để phòng ngừa các biến chứng: suy tim, nhồi máu cơtim, tai biến mạch máu não. Tăng huyết áp và suy t ...