Thông tin tài liệu:
Một thời gian dài sau khi Scheuermann phát hiện ra bệnh, người ta cho rằng nguyên nhân của bệnh là do viêm xương sụn cột sống nên bệnh còn gọi là viêm xương sụn cột sống (spinal osteochondritis). Tuy nhiên rất nhiều nghiên cứu sau đó không tìm ra bằng chứng của viêm và câu hỏi bệnh nguyên- bệnh sinh của bệnh vẫn chưa có câu trả lời xác đáng.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bệnh thoái hóa xương sụn cột sống ở trẻ em Bệnh thoái hóa xươngsụn cột sống ở trẻ emMột thời gian dài sau khi Scheuermann phát hiện rabệnh, người ta cho rằng nguyên nhân của bệnh là doviêm xương sụn cột sống nên bệnh còn gọi là viêmxương sụn cột sống (spinal osteochondritis). Tuy nhiênrất nhiều nghiên cứu sau đó không tìm ra bằng chứngcủa viêm và câu hỏi bệnh nguyên- bệnh sinh của bệnhvẫn chưa có câu trả lời xác đáng.Giả thuyết được chấp nhận rộng rãi hiện nay cho rằng bệnhcó tổn thương nguyên phát từ sự rối loạn tại đĩa sụn pháttriển, nơi chuyển từ sụn thành xương trưởng thành. Từ đóthân các đốt sống bị biến dạng, thường ở các đốt ngực thấphoặc đốt sống thắt lưng cao. Bệnh Scheuermann kinh điểncó triệu chứng gù, đau ở đốt sống ngực, tuy nhiên về saumột số tác giả nhận thấy gù ở đốt sống thắt lưng hoặc cảđốt sống ngực và đốt sống thắt lưng. Các yếu tố bệnh sinhphối hợp bao gồm các yếu tố cơ học, chuyển hóa và nộitiết.Người ta thấy rằng bệnh có liên quan đến yếu tố chấnthương, làm việc gắng sức hoặc hay hoạt động thể thaonặng ở trẻ hệ xương chưa trưởng thành. Hình ảnh mô bệnhhọc trên kính hiển vi điện tử chứng tỏ giảm tỷ lệ collagen/proteoglycan ở đĩa sụn phát triển kèm có canxi hóa sụntrong. Tuổi mắc bệnh hay gặp từ 13- 16 tuổi, hiếm khi chẩnđoán bệnh trước 10 tuổi.Triệu chứng lâm sàng: Gù, vẹo cột sống ở trẻ thườngđược người thân hoặc thầy cô giáo tình cờ phát hiện. Chỉ có20% bệnh nhân đau tại khu vực gù, đau âm ỉ, cảm giác tứcnặng, thường cách quãng không liên tục và liên quan đếnhoạt động thể lực, giảm khi nghỉ ngơi. Khám bệnh nhânthấy gù cột sống, có thể có vẹo gây giảm, hạn chế vận độngrõ. Co cơ cạnh cột sống, đặc biệt ở ngay trên và dưới vị trígù. Các triệu trứng thần kinh do chèn ép hiếm khi gặp. Xétnghiệm thường không có bất thường.Hình ảnh Xquang điển hình của bệnh: trên phim nghiêngthấy hình gù cột sống, mất tư thế ưỡn; thân đốt sống hìnhchêm, tăng đường kính trước sau thân đốt, khe khớp giữacác đốt sống bị hẹp, có thể có canxi hóa ở sụn khớp. Bề mặtthân đốt sống không đều, có thoát vị nội xốp tạo thành hìnhảnh khuyết ở bề mặt đốt sống (hạt Schmorl). Tuy nhiên lưuý hạt Schmorl có thể gặp trong một số bệnh khác như bệnhWilson, bệnh thiếu máu tế bào hình liềm... Trên phim thẳngthấy cột sống có thể vẹo. Tác giả Sorenson đề ra tiêu chuẩnchẩn đoán bệnh Scheuermann bao gồm: cột sống gù tạothành một góc trên 40o, hẹp khe đốt sống kèm bất thườngbề mặt thân đốt sống, góc xẹp hình chêm trên 5o của ít nhất3 thân đốt sống kế tiếp.Các tiêu chuẩn trên cho phép loại trừ gù do các nguyênnhân khác như gù đau lưng do tư thế (triệu chứng gù khôngthường xuyên, tăng khi đau lưng nhiều), loạn sản xơxương, viêm cột sống dính khớp, bệnh nhân phẫu thuật cắtbỏ cung sau đốt sống trước tuổi trưởng thành hoặc sau điềutrị tia xạ tại cột sống, loãng xương xẹp đốt sống do dùngcorticoid kéo dài.Một điểm cần lưu ý là một số bệnh nhân có triệu chứng đaucột sống kiểu cơ học (tăng khi vận động, giảm khi nghỉngơi), X-quang có hẹp khe đốt sống kèm thay đổi bấtthường về bề mặt đốt sống như hạt Schmorl hay đốt sốngcó hình chêm nhẹ nhưng không có triệu chứng gù hay đượcbác sĩ chẩn đoán hình ảnh kết luận mắc bệnh Scheuermann.Tuy nhiên một số tác giả khuyến cáo chỉ nên gọi đó là hìnhảnh cột sống Scheuermann (lumbar Scheuermann’s) chứkhông nên chẩn đoán là bệnh Scheuermann.Những hình ảnh đó ở người trưởng thành không có ý nghĩanhiều về mặt bệnh lý nên chẩn đoán bệnh Scheuermann ởnhững đối tượng này có thể gây lo lắng không cần thiết chobệnh nhân về tiến triển cũng như tiên lượng bệnh.Điều trị bệnh:Còn một số điểm tranh cãi về vai trò của các phương phápđiều trị trong từng giai đoạn. Một số ý kiến cho rằng tiếntriển tự nhiên của bệnh là lành tính và do đó không cầnđiều trị. Các tác giả này dẫn chứng việc điều trị trên một sốbệnh nhân không có hiệu quả. Tuy nhiên đa số thống nhấtviệc điều trị là cần thiết, bao gồm bảo tồn nội khoa và chỉnhhình ngoại khoa. Điều trị nội khoa gồm phục hồi chức năngvà dùng thuốc giảm đau trong đó phục hồi chức năng đóngvai trò quan trọng. Ảnh: InmagineViệc điều trị sớm cho bệnh nhân khi hệ xương chưa trưởngthành sẽ ngăn cản được những biến dạng nặng hơn, từ đóngừa đau. Bệnh nhân với triệu chứng nhẹ, tiến triển chậmchỉ cần nghỉ ngơi, tránh công việc mang vác nặng. Khi gùnặng hơn cần mặc áo nẹp cột sống giữ cho lưng thẳng kèmcác biện pháp phục hồi chức năng cột sống kết hợp thư giãnnghỉ ngơi, nằm trên giường cứng. Cần lập kế hoạch chi tiết,theo dõi lâu dài và thay đổi kế hoạch khi cần thiết, duy trìthời gian điều trị ít nhất 12- 24 tháng liên tục. Điều trị giảmđau bao gồm thuốc giảm đau đơn thuần như paracetamol vànhóm chống viêm giảm đau không steroid như aspirin,diclofenac, meloxicam...Điều trị phẫu thuật ít khi chỉ định trong bệnh Scheuermann,chủ yếu khi đau nhiều không đáp ứng với điều trị bảo tồnnội khoa và gù gây mất thẩm mỹ. Nhìn chung điều trị cầncăn cứ v ...