Bệnh thường gặp ở trẻ nhỏ lúc giao mùaThời tiết chuyển mùa mưa nắng thất thường cùng với độ ẩm tăng cao đang là yếu tố thuận lợi cho các loại vi khuẩn, virut gây bệnh. Trẻ em là đối tượng dễ bị các tác nhân này tấn công nhất, đặc biệt là các bệnh lý đường hô hấp. Trong đó viêm tiểu phế quản (VTPQ) là bệnh thường gặp, có thể dẫn đến những hậu quả nặng nề nếu trẻ không được phát hiện và điều trị kịp thời.VTPQ có thể dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm VTPQ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bệnh thường gặp ở trẻ nhỏ lúc giao mùa Bệnh thường gặp ở trẻ nhỏ lúc giao mùa Thời tiết chuyển mùa mưa nắng thất thường cùng với độ ẩm tăng cao đanglà yếu tố thuận lợi cho các loại vi khuẩn, virut gây bệnh. Trẻ em là đối tượng dễ bịcác tác nhân này tấn công nhất, đặc biệt là các bệnh lý đường hô hấp. Trong đóviêm tiểu phế quản (VTPQ) là bệnh thường gặp, có thể dẫn đến những hậu quảnặng nề nếu trẻ không được phát hiện và điều trị kịp thời. VTPQ có thể dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm VTPQ là bệnh hay gặp ở trẻ nhỏ, nhất là 3-6 tháng tuổi. Khi mắc bệnh, cácphế quản nhỏ này bị viêm, sưng phù, tiết nhiều dịch làm cho đường thở của trẻ bịchít hẹp thậm chí tắc nghẽn. Các bậc cha mẹ không được chủ quan khi thấy trẻ cónhững dấu hiệu như ho, chảy nước mũi trong, sốt vừa hoặc cao. Sau từ 3 - 5 ngàythì trẻ ho ngày một nhiều, xuất hiện thở khó, thở rít. Những trường hợp nặng thìtím tái, thậm chí ngừng thở. Những trẻ đến viện khi thăm khám thường thấy nhịpthở của trẻ nhanh, sốt vừa, xuất hiện các cơn co kéo cơ hô hấp, lồng ngực bị rútlõm, trẻ thở rên. Tiếng thở có thể nghe ran rít, ran ngáy, thông khí phổi kém. Sauđó, trẻ ho nhiều hơn kèm khò khè và có thể bị khó thở (thở nhanh hơn, thở co kéolồng ngực). Nặng hơn nữa trẻ có thể bỏ bú, tím tái. Bệnh có triệu chứng tương tựhen suyễn. Thông thường, trẻ sẽ khò khè kéo dài khoảng 7 ngày, ho giảm dầntrong khoảng 14 ngày rồi khỏi hẳn nếu được chăm sóc tốt. Tuy nhiên, trongkhoảng 1/5 trường hợp, bệnh có thể kéo dài nhiều tuần lễ. Biến chứng thường gặp của bệnh là suy hô hấp, viêm phổi (do dễ bị bộinhiễm), xẹp phổi, viêm tai giữa. Cần lưu ý là bệnh có thể sẽ nặng hơn, kéo dàihơn, nhiều biến chứng hơn và tử vong cũng cao hơn trong các trường hợp sau: trẻdưới 3 tháng tuổi, trẻ sinh non - nhẹ cân, trẻ suy dinh dưỡng nặng, trẻ có sẵn bệnhtim, phổi, suy giảm miễn dịch. Đây là những trẻ có yếu tố nguy cơ cần được chonhập viện sớm khi bị VTPQ. Ngoài ra, bệnh cũng dễ tái phát. Viêm tiểu phế quản ở trẻ em. Những thủ phạm gây bệnh Tác nhân làm cho trẻ bị VTPQ thường là do các virut, đứng hàng đầu làvirut hợp bào hô hấp, chiếm 30- 50% các trường hợp mắc bệnh. Virut này có 2điểm đặc biệt: có khả năng lây lan rất mạnh nên bệnh có khả năng xảy ra thànhdịch; người lớn, trẻ lớn cũng có thể bị nhiễm nhưng biểu hiện thường nhẹ, chỉ nhưcảm ho thông thường. Nhưng nếu trẻ dưới 2 tuổi bị lây nhiễm có thể biểu hiệndưới dạng nặng là VTPQ. Virut cúm và á cúm cũng gây bệnh cho khoảng 25% sốtrẻ bị VTPQ. Ngoài ra phải kể đến Adenovirus với 10% số mắc. Nếu trẻ sống trong vùng có dịch cúm hay viêm đường hô hấp trên (do viruthợp bào) thì tỷ lệ bị lây nhiễm rất cao do sức đề kháng ở cơ thể trẻ còn quá yếu,nhất là trẻ tuổi bú mẹ mà không được bú đầy đủ sữa mẹ. Những trẻ từng bị ốm donhiễm virut trước đó như viêm mũi họng, viêm amidan, viêm VA... đều có nguycơ dễ nhiễm bệnh nếu không được chăm sóc tốt. Các trường hợp trẻ bị bệnh timbẩm sinh, sống trong môi trường hút thuốc lá thụ động, bị bệnh phổi bẩm sinh haybị suy giảm miễn dịch đều có nguy cơ cao mắc phải VTPQ. Người ta cũng đề cập đến mối liên quan của VTPQ với bệnh hen. Sau khibị VTPQ, đường thở của trẻ sẽ trở nên nhạy cảm hơn và khoảng 1/3 trẻ bị VTPQcó thể diễn tiến thành hen sau này. Chăm sóc trẻ như thế nào? Nếu trẻ có dấu hiệu bệnh nhẹ, không có biến chứng, không có yếu tố nguycơ thì có thể được chăm sóc tại nhà. Tiếp tục cho trẻ bú hay ăn uống đầy đủ. Cầncho trẻ uống nhiều nước để tránh thiếu nước. Cần làm thông thoáng mũi cho trẻ đểgiúp trẻ dễ thở hơn và bú tốt hơn. Có thể nhỏ mũi với 2-3 giọt nước muối sinh lýsau đó làm sạch mũi cho trẻ. Cho trẻ dùng thuốc đúng như chỉ dẫn của thầy thuốc.Tránh khói thuốc lá vì có thể làm bệnh của trẻ nặng hơn và dễ bị hen sau này. Cầnđi tái khám đúng hẹn của bác sĩ. Khi trẻ có dấu hiệu nặng như khó thở, bú kém, tím tái, có biến chứng cầncho trẻ nhập viện để điều trị. Đối với các thể thông thường, không có suy hô hấpthì ngay khi vào viện các bác sĩ sẽ tiến hành hút thông đường thở, giải phóng cácchất xuất tiết. Dùng khí dung ẩm thuốc giãn phế quản có tác dụng nhanh nhưventolin, bricanyl, salbutamol. Kết hợp với lý liệu pháp hô hấp, vỗ rung, hút đờm.Những trẻ sốt cao, nôn, thở nhanh phải dù đủ dịch và điện giải theo nhu cầu cơ thểtrẻ. Cần cho trẻ dinh dưỡng đủ chất, và cân nhắc cẩn thận trước khi sử dụng khángsinh. Đối với những trường hợp nặng có suy hô hấp thì phải sử dụng liệu phápoxygen, hút thông đường hô hấp trên, dùng thuốc giãn phế quản đường khí dungẩm, truyền nước, điện giải theo nhu cầu cơ thể bù lượng thiếu hụt. Nếu những biệnpháp trên không cải thiện tình trạng suy hô hấp thì phải tiến hành đặt nội khí quảnvà các biện pháp hô hấp hỗ trợ khác. Chỉ sử dụng kháng sinh khi có biểu hiệnviêm nhiễm thứ phát, không nên dùng steriod cho trẻ. Nhiều khuyến ...