Trượt đốt sống là bệnh thường gặp, xảy ra chủ yếu ở vùng cột sống thắt lưng. Bệnh có thể do bẩm sinh, thoái hoá, chấn thương, bệnh lý gây ra, trong đó hay gặp nhất là trượt đốt sống do hở eo và do thoái hóa.Vì sao bị trượt đốt sống?
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bệnh trượt đốt sống ở người cao tuổi Bệnh trượt đốt sống ở người cao tuổiTrượt đốt sống là bệnh thường gặp, xảy ra chủ yếu ở vùng cột sống thắtlưng. Bệnh có thể do bẩm sinh, thoái hoá, chấn thương, bệnh lý gây ra,trong đó hay gặp nhất là trượt đốt sống do hở eo và do thoái hóa.Vì sao bị trượt đốt sống?Một người có thể bị trượt đốt sống do một trong các nguyên nhân sau đây:bẩm sinh, bị rối loạn phát triển, với đặc điểm là các khiếm khuyết về giảiphẫu của mấu khớp như: thiểu sản mấu khớp, định hướng của khe khớp nằmtrên mặt phẳng hướng ra sau, thường có dị tật gai đôi cột sống; thiểu sảnmấu khớp, định hướng của khe khớp nằm trên mặt phẳng hướng vào trong.Do khe hở eo, khuyết eo do gãy, do hiện tượng gãy xương và liền xương xảyra liên tục ở vùng eo; chấn thương làm gãy eo gây trượt. Do thoái hoá chủyếu ở vị trí L4-5, thường gặp ở phụ nữ tuổi từ 40-50; thoái hoá cột sống,nhất là thoái hoá đĩa đệm và các mấu khớp, làm mất tính vững chắc của cộtsống gây nên.Do bệnh lý như: nhiễm khuẩn, ung thư làm hoại tử hay phá hủy các cấu trúccủa cột sống; bệnh vôi hóa đốt sống. Do chấn thương làm gãy cuống, gãymấu khớp dẫn tới mất vững cột sống. Do phẫu thuật cắt cung sau kèm theocắt bỏ các mấu khớp. Các mức độ tổn thương trượt đốt sống do thoái hóa.Phát hiện bệnh có khó không?Bạn có thể phát hiện được bệnh trượt đốt sống căn cứ vào các dấu hiệu sau:bệnh nhân có biểu hiện mất vững cột sống và chèn ép các rễ thần kinh.Người bệnh đau cột sống thắt lưng âm ỉ liên tục, đau tăng khi cột sống phảichịu lực như khi đứng, đi bộ, lao động…nhưng nằm nghỉ thì hết đau hoặcđau giảm hẳn.Khi bệnh nhân thay đổi tư thế cũng gây đau cột sống, phải chống tay vào đùikhi đứng lên. Nếu bệnh nặng thường có thay đổi tư thế thân người và dángđi. Ở vùng cột sống thắt lưng có thể có biến dạng lõm, gọi là dấu hiệu bậcthang, dấu hiệu nhát rìu… Có bệnh nhân bị đau cách hồi, đây là triệu chứngđau đặc trưng của bệnh: đau khi đi bộ, vì đau phải dừng lại, hết đau mới đitiếp, đang đi vì đau lại phải nghỉ, hết đau lại đi. Đối với bệnh nhân bị chènép rễ thần kinh, họ thường đau cả khi nằm nghỉ.Bệnh nhân bị hẹp lỗ ghép thần kinh được cho là nguyên nhân chèn ép rễ haygặp nhất. Lỗ ghép hẹp là do các yếu tố như sự lồi vào của bờ sau thân đốt vàđĩa đệm, tình trạng khớp giả và tổ chức xơ từ khe hở eo, một phần do cộtsống thường xoay nhẹ làm cho lỗ ghép hẹp hơn ở một bên. Số ít bệnh nhânvì tổ chức xơ quá phát từ khe eo rất nhiều trở thành nguyên nhân gây chènép rễ thần kinh.Các nguyên nhân chèn ép rễ khác ít gặp hơn như thoát vị đĩa đệm tại mứctrượt hay là ở vị trí lân cận các đốt sống trượt. Đối với bệnh nhân trượt đốtsống do thoái hoá, tình trạng chèn ép rễ thần kinh do hẹp lỗ ghép khá phổbiến.Chụp Xquang, chụp cắt lớp, chụp cộng hưởng từ xác định được mức độtrượt, mức độ thoái hoá của cột sống và nguyên nhân gây chèn ép thần kinh.Chụp cộng hưởng từ còn đánh giá được tình trạng hẹp lỗ ghép. Sử dụng thực phẩm chứa nhiều canxi để hạn chế thoái hóa cột sống .Về điều trịHầu hết bệnh nhân bị trượt đốt sống được điều trị nội khoa. Những bệnhnhân ở tuổi thiếu niên, chỉ cần nằm nghỉ, mặc áo cố định ngoài và hạn chếcác hoạt động gây đau là có thể cải thiện được các triệu chứng của bệnh.Đối với bệnh nhân là người trưởng thành, trong những đợt đau cấp phảiđược nằm nghỉ, tránh mọi hoạt động hay lao động; dùng các thuốc chốngviêm, giảm đau như paracetamol, aspirin, diclofenac, ibusprophen… sửdụng vật lý trị liệu, các phương pháp phục hồi chức năng, hướng dẫn bệnhnhân tập các bài thể dục tăng cường các cơ lưng, cơ bụng và cơ đùi; thựchiện ăn uống và các tập luyện nhằm giảm cân đối với người béo.Điều trị bằng phẫu thuật trong các trường hợp: trượt đốt sống có tổn thươngrễ thần kinh; có đau cột sống thắt lưng điều trị nội khoa nhưng không đỡ;trượt đốt sống tiến triển ngày càng nặng. Phẫu thuật ghép xương làm liềnxương vững chắc giữa các đốt sống, loại bỏ chuyển động bất thường giữacác đốt sống kém vững.Theo dõi và điều trị sau mổ: sau mổ, bệnh nhân cần được bất động tạigiường từ 5-7 ngày. Nếu bệnh nhân hết đau có thể cho ngồi dậy sớm hơn.Chú ý phát hiện biến chứng sớm: nhiễm khuẩn, tổn thương rễ… Cần chụpXquang trước khi bệnh nhân ra viện để đánh giá vị trí của vít; đánh giá dilệch trượt sau mổ…Phòng bệnh cần tránh các cử động nặng vùng thắt lưng để tránh tình trạnggãy xương và liền xương xảy ra liên tục ở vùng eo. Phòng tránh các chấnthương làm gãy eo gây trượt đốt sống như tai nạn giao thông, tai nạn laođộng, tai nạn trong luyện tập thể thao. Dùng thức ăn chứa nhiều canxi đểphòng tránh bệnh loãng xương, hạn chế sự thoái hoá cột sống, nhất là ở phụnữ từ 40-50 tuổi.Điều trị triệt để các bệnh nhiễm khuẩn để phòng biến chứng trượt đốt sống.Đối với bệnh nhân đã mổ điều trị trượt đốt sống, sau khi ra viện, cần kiểmtra định kỳ theo hẹn để đánh giá kết quả mổ, sự phục hồi chức nă ...